Bản án 61/2019/HSST ngày 22/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 61/2019/HSST NGÀY 22/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 22 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 58/2019/HSST ngày 26 tháng 4 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 58/2019/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 5 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Hoàng Văn T; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1999 tại: Xã M C, huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản C Q, xã M G, huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt nam; Con ông: Hoàng Văn T, sinh năm: 1980 và bà Điêu Thị L, sinh năm: 1980; bị cáo chưa có vợ; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt giam giữ từ ngày 30/01/2019 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

2. Lò Văn D; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1998 tại: Xã C B, huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản P L, xã M G, huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt nam; Con ông: Lò Văn B, sinh năm: 1973 và bà Mè Thị L, sinh năm: 1975; bị cáo chưa có vợ; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt giam giữ từ ngày 30/01/2019 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi liên quan: Ông Lò Văn B ( Bố bị cáo D ), sinh năm: 1973, nơi cư trú: Bản P L, xã M G, huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La ( Có mặt ).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 23 giờ 00 phút ngày 30/01/2019, tại khu vực bản Pá, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, tổ công tác Công an xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, phát hiện bắt quả tang 02 đối tượng gồm: Hoàng Văn T ( Sinh năm: 1999, trú tại: Bản C Q – M G – Quỳnh Nhai - Sơn La) và Lò Văn D ( Sinh năm: 1998, trú tại: Bản P L – M G – Quỳnh Nhai - Sơn La ) về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ từ các đối tượng gồm:

- 01 gói ni lon màu trắng bên trong có chứa chất bột cục màu trắng ( Theo đối các đối tượng T và D khai nhận là Heroine); 03 viên nén hình trụ màu hồng ( Theo các đối tượng T và D khai nhận là ma túy tổng hợp );

- 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVE, BKS: 26H1-000.61.

Kết quả cân tịnh số bột cục màu trắng và 03 viên nén hình trụ màu hồng của các đối tượng T và D như sau:

- Số bột cục màu trắng có khối lượng 0,17 gam, trích rút 0,10 gam đánh ký hiệu T1 làm mẫu vật gửi giám định, số còn lại 0,07 gam đánh ký hiệu T2 đã niêm phong.

- 03 viên nén hình trụ màu hồng có khối lượng 0,28 gam, trích rút toàn bộ 0,28 gam đánh ký hiệu T3 làm mẫu vật gửi giám định.

Tại bản Kết luận giám định số: 302/KLMT ngày 03/02/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu T1 là ma túy; loại chất Heroine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,10 gam. Mẫu gửi giám định ký hiệu T3 là ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,28 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,28 gam loại Methamphetamine và 0,17 gam loại Heroine. Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định.

Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, các bị can Hoàng Văn T và Lò Văn D đã khai nhận như sau:

Khong 19 giờ 15 phút ngày 30/01/2019, trong khi T đang đứng chơi ở bản Chẩu Quân – Mường Giàng – Quỳnh Nhai – Sơn La, thì gặp Lò Văn D điều khiển xe máy BKS: 26H1 – 000.61 đến, D rủ T góp tiền mua ma túy để sử dụng chung và được T đồng ý. Tiếp đó D điều khiển xe máy chở theo T đến xã Thôm Mòn để mua ma túy, khi tới bản Thôm, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, thì D và T gặp 01 người đàn ông dân tộc Thái không quen biết đang đứng ở ven đường nên dừng xe hỏi “ Cháu có 200.000đ chú có ma túy bán không, bán cho cháu một ít Heroine và 05 viên hồng phiến ”, do được người đàn ông đó nhất trí, nên D đưa cho T 100.000đ, T nhận tiền D đưa rồi lấy 100.000đ của mình ra góp vào thành 200.000đ đưa cho người đàn ông đó. Sau khi nhận tiền thì người đàn ông dân tộc Thái bảo T đợi và đi đâu đó khoảng 15 phút thì quay trở lại đưa cho T 01 gói ni lon màu trắng bên trong có chứa chất bột cục màu trắng và 05 viên hồng phiến. Ngay sau khi mua được ma túy thì T và D rẽ vào bụi cây ven đường lấy ra một ít Heroine và 02 viên hồng phiến cùng nhau sử dụng. Sau khi sử dụng xong ma túy thì T gói lại số ma túy còn thừa cất vào túi quần đằng trước bên phải đang mặc rồi được D điều khiển xe máy chở về nhà. Tuy nhiên trên đường về đến đoạn khu vực bản Pá, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, thì T và D bị tổ công tác Công an xã Thôm Mòn phát hiện bắt quả tang khi đang tàng trữ trái phép 02 loại chất ma túy như đã nêu ở trên.

Tại bản Cáo trạng số: 59/CT-VKS ngày 26/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, đề nghị truy tố các bị can Hoàng Văn T và Lò Văn D về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự;

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, giữ quan điểm truy tố các bị cáo Hoàng Văn T và Lò Văn D, về tội danh và điều khoản luật áp dụng như trên.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249 – điểm s khoản 1 Điều 51 - Điều 38, 58 Bộ luật hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn T và Lò Văn D phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

+ Đề nghị và xử phạt bị cáo Hoàng Văn T mức án từ 13 đến 16 tháng tù.

+ Đề nghị và xử phạt bị cáo Lò Văn D mức án từ 14 đến 18 tháng tù - Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền được quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, đối với các bị cáo.

Xử lý vật chứng:

Đề nghị áp dụng điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1, 2 Điều 47 Bộ luật hình sự;

- Tuyên tịch thu tiêu huỷ số chứng là 0,07 gam Heroine.

- Tuyên trả lại cho người có quyền lợi liên quan là ông Lò Văn B vật chứng là chiếc xe máy BKS: 26H1 – 000.61, do ông B không có lỗi trong việc để bị cáo sử dụng chiếc xe làm phương tiện phạm tội.

Đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

- Buộc các bị cáo nộp án phí hình sự sơ thẩm, mỗi bị cáo là 200.000đ ( Hai trăm nghìn đồng ).

Tại phiên tòa bị cáo D có ý kiến: Thừa nhận ngày 30/01/2019, đã rủ bị cáo T góp tiền để cùng nhau đi mua ma túy sử dụng, bị phát hiện bắt quả tang khi đang tàng trữ trái phép 0,17 gam Heroine và 0,28 gam Methamphetamine. Nay bị cáo đã biết tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo T có ý kiến: Thừa nhận ngày 30/01/2019, đã nghe theo lời rủ rê của bị cáo D mà góp tiền cùng nhau đi mua ma túy sử dụng, bị phát hiện bắt quả tang khi đang tàng trữ trái phép 0,17 gam Heroine và 0,28 gam Methamphetamine. Nay bị cáo đã biết tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về nội dung: Ngày 30/01/2019, các bị cáo Lò Văn D và Hoàng Văn T ( Có căn cước lý lịch như trên ) đã bị bắt quả tang về hành vi Tàng trữ trái phép 02 loại chất ma tuý ( 0,17 gam Heroine + 0,28 gam Methamphetamine = 0,45 gam ) với mục đích sử dụng cho bản thân. Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo là những người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự để nhận thức được hành vi mua, tàng trữ trái phép chất ma túy là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện nhằm thỏa mãn cơn nghiện. Xét lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với vật chứng thu giữ, Kết luận giám định đối với vật chứng là 02 chất ma túy và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Trên cơ sở đó đã đủ căn cứ kết luận các bị cáo Lò Văn D và Hoàng Văn T đã phạm vào tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Như quan điểm luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu tại phiên tòa là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tại Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:

“ 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này .”.

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi; Hành vi các bị cáo thực hiện đã xâm phạm đến lĩnh vực độc quyền thống nhất quản lý nhà nước về các chất ma tuý. Cụ thể hành vi mua, tàng trữ trái phép chất ma tuý nhằm sử dụng cho bản thân trước là xâm hại đến chính sức khỏe của các bị cáo, sau là hành vi tiếp tay cho loại tội phạm khác như mua bán, vận chuyển . . . trái phép chất ma tuý trong xã hội gia tăng, gây mất trật tự an ninh ở địa phương. Tội phạm các bị cáo thực hiện thuộc trường hợp nghiêm trọng, do đó cần phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc, cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian tương xứng với tích chất mức độ hành vi phạm tội, với mục đích trừng trị, răn đe, giáo dục và cải tạo các bị cáo thành những người công dân có ích cho xã hội.

[4] Trong vụ án các bị cáo cùng thực hiện một hành vi phạm tội, trong đó bị cáo D giữ vai trò khởi xướng; bị cáo T giữ vai trò đồng phạm tích cực thực hiện hành vi phạm tội. Do đó cần áp dụng Điều 58 Bộ luật hình sự để cá thể hóa hành vi phạm tội của mỗi bị cáo khi quyết định hình phạt.

[5] Tình tiết tăng nặng: Không.

[6] Tình tiết giảm nhẹ: Xét quá trình điều tra, truy tố và xét xử các bị cáo cùng có thái độ khai báo thành khẩn, nên được áp dụng là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[7] Các bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục giam giữ các bị cáo trong hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.

[8] Đối với hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự. Căn cứ vào kết quả xác minh xác định các bị cáo không có khả năng thi hành nên Hội đồng xét xử không áp dụng.

[9] Xử lý vật chứng:

- Đối với vật chứng 0,07 gam Heroine (Số còn lại sau khi trích rút 0,10 gam Heroine và 0,28 gam Methamphetamine gửi giám định) là chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của các bị cáo. Cần áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; để tuyên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với vật chứng chiếc xe máy BKS: 26H1-000.61. Kết quả điều tra xác định: Chiếc xe thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông Lò Văn B (Bố bị cáo D), việc bị cáo D tự ý sử dụng xe làm phường tiện đi mua ma túy ông B không là người có lỗi. Do vậy cần áp dụng: điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; Để tuyên trả lại chiếc xe cho ông Ban.

[10] Đối với nguồn gốc ma túy bị bắt giữ, theo các bị cáo khai do mua của 01 người đàn ông dân tộc Thái không quen biết tại bản Thôm, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Quá trình điều tra do các bị cáo không cung cấp được tên, tuổi, địa chỉ và đặc điểm nhận dạng cụ thể của đối tượng. Nên cơ quan Điều tra không có cơ sở, để điều tra làm rõ.

[11] Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm, theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

[12] Các bị cáo và người có quyền lợi liên quan được quyền kháng cáo bản án, theo quy định tại các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249 - điểm s khoản 1 Điều 51 - Điều 38, 58 Bộ luật hình sự;

- Tuyên bố các bị cáo Lò Văn D và Hoàng Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

- Xử phạt bị cáo Lò Văn D 14 ( Mười bốn ) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 30/01/2019 (Ngày bắt giữ bị cáo ).

- Xử phạt bị cáo Hoàng Văn T 13 (Mười ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 30/01/2019 (Ngày bắt giữ bị cáo ).

Áp dụng khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự;

* Tiếp tục tạm giam các bị cáo trong hạn 45 ( Bốn mươi lăm ) ngày, kể từ ngày tuyên án, để đảm bảo biện pháp thi hành án phạt tù.

2. Xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; khon 1, 2 Điều 47 Bộ luật hình sự;

- Tuyên tịch thu tiêu huỷ: Chất bột cục màu trắng là ma túy, loại Heroine có khối lượng 0,07 gam ( Không phẩy không bẩy gam ) ký hiệu T2 + 01 mảnh ni lon màu trắng + 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu. các vật chứng trên được niêm phong trong cùng một phong bì thư có viền xanh đỏ.

- Tuyên trả lại cho người có quyền lợi liên quan là ông Lò Văn B: 01 chiếc xe máy loại xe Wave, nhãn hiệu HONDA, màu sơn trắng – đen, mang BKS: 26H1 – 000.61, số khung: 371630, số máy: 6314346, xe đã qua sử dụng.

3. Án phí:

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

- Buộc các bị cáo nộp án phí hình sự sơ thẩm, mỗi bị cáo là 200.000đ ( Hai trăm nghìn đồng ).

4. Quyền kháng cáo:

Áp dụng các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Báo cho các bị cáo và người có quyền lợi liên quan biết quyền được kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 61/2019/HSST ngày 22/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:61/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về