Bản án 61/2019/HS-ST ngày 19/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN GIÁO - TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 61/2019/HS-ST NGÀY 19/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Vào hồi 09 giờ 30 phút ngày 19 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 57/2019/TLST-HS ngày 18 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 64/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn T; tên gọi khác: Không; sinh năm 1974; tại xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên; nơi cư trú: Bản N, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hoá: Lớp 2/12; con ông: Lò Văn H, sinh năm 1927 và con bà: Lò Thị Ú, sinh năm 1929; bị cáo có vợ là Lò Thị K; sinh năm 1976 và có 05 người con, con lớn nhất sinh năm 1999, con nhỏ nhất sinh năm 2017; tiền sự: Không; tiền án: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 14/3/2019 đến ngày 17/3/2019 và bị tạm giam từ ngày 17/3/2019 cho đến nay. Bị cáo được trích xuất áp giải và có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo: Bà Lê Thị Xuân - Luật sư, cộng tác viên - Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 00 phút ngày 13/3/2019, Lò Văn T một mình điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu sơn trắng đen bạc biển kiểm soát 27 Z1-244.93; đi từ nhà ở bản N, xã Q xuống khối 20, thị trấn T, huyện T, tỉnh Điện Biên để tìm mua Heroine về sử dụng thì gặp một người đàn ông, người đó tự giới thiệu tên là P, dân tộc Kinh, 45 tuổi, trú tại khối 20, thị trấn T. Qua trao đổi T đã mua được của P 13 gói Heroine được gói bằng nilon màu xanh với giá 250.000 đồng. Việc trao đổi mua bán Heroine chỉ có T và P biết với nhau ngoài ra không có ai biết và tham gia cùng, không cân xác định khối lượng. Sau khi mua bán xong, P đi đâu thì T không biết còn T cầm gói Heroine trên tay trái và điều khiển xe máy đi về nhà. Khoảng 22 giờ cùng ngày, T lấy gói Heroine ra dùng dao lam chia thành 13 gói nhỏ rồi gói lại bằng các mảnh nilon màu xanh và một ít vụn T đã sử dụng bằng hình thức hít. Sau khi chia xong, T cất giấu 13 gói Heroine dưới gối đầu giường ngủ để nhằm mục đích sử dụng dần. Đến khoảng 10 giờ ngày 14/3/2019, thì Lò Văn T bị tổ công tác công an huyện Tuần Giáo phát hiện bắt quả tang và thu giữ 13 gói nghi Heroine. Bị cáo Lò Văn T và vật chứng đã được đưa về Cơ quan điều tra Công an huyện Tuần Giáo để điều tra làm rõ.

Sau khi đưa vật chứng về Cơ quan điều tra, Công an huyện Tuần Giáo thì Cơ quan điều tra đã mở niêm phong có sự chứng kiến của bị cáo: Đối với 13 gói chất bột màu trắng nghi Heroine thu giữ của bị cáo được xác định khối lượng 0,34gam và trích 0,05 gam làm mẫu vật gửi giám định. Cơ quan điều tra đã trích mẫu giám định và ra Quyết định trưng cầu giám định số: 66 ngày 20/3/2019. Tại bản Kết luận giám định số: 365/GĐ-PC09 ngày 29/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Văn T gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine.

Tại Cáo trạng số: 57/CT-VKS-TG ngày 17 tháng 6 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên đã truy tố bị cáo Lò Văn T về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tại phiên tòa vị Kiểm sát viên Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo Lò Văn T từ 18 tháng đến 24 tháng tù; không phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS tuyên hủy 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín bên trong có chứa 0,29 gam Heroine; tịch thu của bị cáo 01 xe máy nhãn hiệu Honda, kiểu xe Wave màu sơn trắng đen bạc dung tích xilanh 109, biển kiểm soát27Z1-244.93, số máy JA39E0767936, số khung RLHJA3908HY787752 để sung quỹ Nhà nước. Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Luận cứ của người bào chữa cho bị cáo: Xét về điều kiện hoàn cảnh bị cáo sống ở vùng có điều kiện kinh tế khó khăn, nhận thức pháp luật còn hạn chế, nhân thân của người phạm tội; thái độ tích cực trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đồng thời gia đình bị cáo có bố đẻ là ông Lò Văn H được tặng Huân chương kháng chiến nên đề nghị HĐXX xem xét áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS để tuyên mức hình phạt nhẹ nhất của khung hình phạt đối với bị cáo. Đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo; đối với chiếc xe máy đã bị tạm giữ, mặc dù do tiền của con bị cáo mua trả góp đứng tên bị cáo, tuy nhiên cũng không có cơ sở nào khẳng định, nhưng chiếc xe máy này mua trong thời kì hôn nhân do đó nó là tài sản chung của gia đình bị cáo, nên đề nghị tịch thu 1/2 giá trị chiếc xe và trả lại ½ giá trị chiếc xe máy cho vợ bị cáo là chị Lò Thị K.

Tại phiên tòa, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo Lò Văn T thừa nhận: Khoảng 18 giờ 00 ngày 13/3/2019, Lò Văn T một mình điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu sơn trắng đen bạc biển kiểm soát 27Z1-244.93 đi từ nhà ở bản N, xã Q xuống khối 20/7 thị trấn Tuần Giáo, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên để tìm mua Heroine về sử dụng vì bị cáo nghiện ma túy. Bị cáo đã mua được của một người đàn ông, người đó tự giới thiệu tên là Phung, dân tộc Kinh, 45 tuổi, trú tại khối 20/7 thị trấn Tuần Giáo. Qua trao đổi Thong đã mua được của P 01 gói Heroine được gói bằng nilon màu xanh với giá 250.000 đồng. Khi mua không cân xác định khối lượng và cũng không có ai tham gia cùng. Khi bị phát hiện bắt quả tang, Cơ quan điều tra thu giữ vật chứng, khi mở niêm phong xác định khối lượng thì bị cáo đều được chứng kiến và thừa nhận khối lượng thu giữ là 0,34 gam Heroine được xác định là hoàn toàn chính xác. Xét lời nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, phù hợp nội dung cáo trạng và tại phiên tòa. Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Lò Văn T đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Vì vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo truy tố và Kiểm sát viên luận tội là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm vào những quy định của Nhà nước trong việc quản lý, sử dụng các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy cần xử lý nghiêm minh nhằm răn đe và phòng ngừa chung.

[3] Xét tình tiết định khung hình phạt đối với bị cáo: Khối lượng Heroine bị thu giữ của Lò Văn T là 0,34 gam; nằm trong khoảng từ 0,1 gam đến dưới 5 gam; số ma túy đã bị thu giữ bị cáo thừa nhận tàng trữ nhằm mục đích sử dụng; bởi vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS có mức hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù.

[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Còn nhỏ ở với bố mẹ, được bố mẹ nuôi dưỡng; học hết lớp 2/12 thì bỏ học ở nhà lao động sản xuất cùng gia đình. Năm 1997 kết hôn với chị Lò Thị K và có 05 người con. Năm 2018 nghiện chất ma túy. Đến ngày 15/3/2019 bị Cơ quan điều tra Công an huyện Tuần Giáo khởi tố về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS cho bị cáo. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 BLHS. Bị cáo là người đã có gia đình lẽ ra bị cáo phải chịu thương chịu khó, tu chí làm ăn cùng gia đình và là tấm gương để con bị cáo noi theo. Nhưng vì không vượt qua khỏi những cám dỗ và rủ rê của bạn bè; vì muốn thể hiện bản thân nên bị cáo đã mắc phải tệ nạn nghiện ma túy vào năm 2018. Cũng chính từ nghiện ma túy để thỏa mãn cơn nghiện ma túy nên bị cáo đã bất chấp quy định của Pháp luật để mua ma túy với mục đích sử dụng. Bởi vậy, Hội đồng xét xử cần có mức hình phạt nghiêm khắc để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt, có ích cho gia đình và xã hội và cũng là cơ hội để giúp bị cáo cai nghiện ma túy.

[5] Theo khoản 5 Điều 249 BLHS quy định; bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, xét điều kiện hoàn cảnh của bị cáo không có khả năng thi hành; nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Tại phiên tòa, Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên mức hình phạt đối với bị cáo Lò Văn T từ 18 tháng đến 24 tháng tù; Hội đồng xét xử xét thấy là phù hợp với tính chất mức độ hành vi của bị cáo nên cần chấp nhận.

[7] Đối với luận cứ bào chữa cho bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Với ý kiến cho rằng bị cáo sống ở nơi có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, bản thân chỉ học hết lớp 2/12 nên hạn chế nhận thức pháp luật, Hội đồng xét xử thấy là không phù hợp vì tại địa bàn nơi bị cáo sinh sống có rất nhiều người dân sinh sống và tuân thủ pháp luật; họ vẫn vươn lên trước điều kiện kinh tế khó khăn; hơn nữa thời gian qua chính quyền địa phương, cũng như các cấp các ngành đã tốn nhiều sức người sức của vào việc tuyên truyền pháp luật và bị cáo cũng thừa nhận rằng hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Nên qua đó thấy rằng, do bị cáo thiếu ý thức pháp luật, thiếu ý thức, thiếu bản lĩnh trong cuộc sống nên đã tự mình dấn thân vào con đường nghiện ma túy. Đồng thời phiên tòa ngày hôm nay cũng là giúp bị cáo có cơ hội cai nghiện ma túy, để sửa chữa lỗi lầm của bản thân, sống tốt hơn và có ý thức pháp luật hơn.

Đối với đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 51 BLHS cho rằng bị cáo có bố đẻ được tặng Huân chương kháng chiến, tuy nhiên trong hồ sơ cũng thể hiện bố bị cáo không được tặng thưởng huân chương kháng chiến; tại phiên tòa gia đình bị cáo có cung cấp cho HĐXX cho rằng là Huân chương, tuy nhiên qua kiểm tra đó chỉ là những huy hiệu, không có số hiệu, không có tên ông Lò Văn H, đồng thời để xác định có Huân chương cần phải có văn bản chứng minh tuy nhiên không có, do đó không có cơ sở chấp nhận đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 51 BLHS cho bị cáo.

Đồng thời người bào chữa đề nghị tuyên mức hình phạt thấp nhất của khung hình phạt đã truy tố đối với bị cáo, HĐXX không chấp nhận; bởi nếu như không có hình phạt nghiêm khắc, không có thời gian cho bị cáo nhận được sự cải tạo giáo dục cũng sẽ không giúp được bị cáo cai nghiện ma túy; giúp bị cáo tìm được một cuộc sống mới tốt hơn, có trách nhiệm hơn.

[8] Về nguồn gốc số Heroine bị thu giữ, bị cáo khai do bị cáo mua của người đàn ông dân tộc Kinh, tên P, khoảng 45 tuổi, trú tại khối 20, thị trấn T, huyện T, tỉnh Điện Biên; quá trình điều tra cơ quan CSĐT công an huyện Tuần Giáo đã tiến hành xác minh tại khối 20, thị trấn T nhưng không có ai tên là P như T đã khai báo nên cơ quan cảnh sát điều tra, Công an huyện Tuần Giáo không có căn cứ để điều tra làm rõ. Nên HĐXX không xem xét.

[9] Về vật chứng: Hội đồng xét xử thấy rằng cần căn cứ vào điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS và khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS để xử lý vật chứng như sau: Cần tịch thu để tiêu hủy 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín bên trong có chứa 0,29 gam Heroine là chất cấm lưu hành;

Đối với chiếc xe máy tạm giữ của Lò Văn T, xác định đây là phương tiện bị cáo dùng để phạm tội; mặc dù người bào chữa cho bị cáo cho rằng đây là tài sản chung của vợ chồng nên đề nghị tịch thu 1/2 giá trị của xe máy, trả lại cho vợ bị cáo 1/2 giá trị của xe máy; tuy nhiên thấy rằng chiếc xe máy này do bị cáo là chủ sở hữu, đồng thời khi sử dụng xe để làm phương tiện đi mua ma túy là ý chí chủ quan của bị cáo; nên cần tịch thu của bị cáo Lò Văn T 01 xe máy nhãn hiệu Honda, kiểu xe Wave màu sơn trắng đen bạc dung tích xilanh 109, biển kiểm soát 27Z1-244.93, số máy JA39E0767936, số khung RLHJA3908HY787752 để sung quỹ Nhà nước.

[10] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 BLTTHS và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án bị cáo đủ điều kiện để miễn án phí hình sự sơ thẩm.

[11] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thấy rằng: Bị cáo không có ý kiến khiếu nại các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng theo quy định của Pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 332; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, tuyên xử:

1. Tội danh: Tuyên bố bị cáo Lò Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Lò Văn T 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/3/2019.

3. Vật chứng: Tịch thu để tiêu hủy 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín bên trong có chứa 0,29 gam Heroine; tịch thu của bị cáo Lò Văn T 01 xe máy nhãn hiệu Honda, kiểu xe Wave màu sơn trắng đen bạc dung tích xilanh 109, biển kiểm soát 27Z1-244.93, số máy JA39E0767936, số khung RLHJA3908HY787752 để sung quỹ Nhà nước. Đặc điểm vật chứng nói trên được ghi theo Phiếu nhập kho số: PNKVC72 ngày 18/6/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuần Giáo.

4. Án phí: Bị cáo Lò Văn T được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo Lò Văn T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 19/7/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 61/2019/HS-ST ngày 19/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:61/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về