Bản án 598/2019/HNGĐ-ST ngày 05/06/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 598/2019/HNGĐ-ST NGÀY 05/06/2019 VỀ LY HÔN

Trong các ngày 28 tháng 5 và 05 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử công khai vụ án thụ lý số 244/2018/TLST-HNGĐ ngày 05/6/2018 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1878/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 4 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Truong H, sinh năm 1980 (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt)

Địa chỉ: Canada.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn để nộp án phí, nhận giấy triệu tập, thông báo, bản án, quyết định của tòa án trong vụ án: ông Trần Đăng M, sinh năm 1979, phường T, quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.

Theo hợp đồng ủy quyền có số công chứng 11996 quyển số 05 TP/CC-SCC/HĐGD lập tại Phòng công chứng số D Thành phố Hồ Chí Minh ngày 16/5/2018 và cước chú lề ngày 04/04/2019,

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Nhật T, sinh năm 1984 (có mặt)

Địa chỉ: phường B1, quận B2, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nguyên đơn ông Truong H trình bày:

Ngày 30/9/2015, ông Truong H và bà Nguyễn Thị Nhật T tự nguyện kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 2348 quyển số 12 ngày 01/10/2015 do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp.

Ông bà sống hạnh phúc trong khoảng thời gian đầu, sau đó mâu thuẫn phát sinh do bất đồng quan điểm sống, tính tình trái ngược nhau; ông sinh sống ở Canada còn bà T sống ở Việt Nam trong nhiều năm qua, do khoảng cách địa lý xa xôi đã làm cho tình cảm vợ chồng phai nhạt. Mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng đến mức trong đợt ông trở về Việt Nam vào tháng 5/2018 ông bà đã không thể nói chuyện được với nhau do bất đồng quan điểm. Ông xác định rõ không còn tình cảm với bà T, không cần thiết phải gặp bà để tìm hiểu tâm tư hay cơ hội hàn gắn vì cả hai không còn sự quan tâm và yêu thương lẫn nhau dù cả hai đã có nhiều nỗ lực, đồng thời cả hai đã vi phạm quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông xin ly hôn với bà T.

Về con chung: Ông và bà T có một con chung tên Truong H1, sinh ngày 17/5/2016, từ nhỏ đến nay vẫn sống cùng mẹ. Ông H đồng ý để cho bà T trực tiếp nuôi con chung, ông tự nguyện cấp dưỡng nuôi con 700 đô la Canada/tháng (được quy đổi thành tiền Việt Nam khi cấp dưỡng) cho đến khi con chung trưởng thành theo luật định.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có.

Bà Nguyễn Thị Nhật T có ý kiến như sau:

Bà T thống nhất với lời khai của ông H về việc đăng ký kết hôn, con chung.

Sau khi kết hôn, ông bà sống cùng nhau tại nhà của ông Truong H ở Việt Nam, Phường B, Quận C. Do tính chất công việc nên ông H về Canada để tiếp tục làm việc và vẫn về Việt Nam thăm bà mỗi năm.

Bà T không đồng ý với yêu cầu xin ly hôn của ông H vì bà cho rằng lý do ông đưa ra là không chính đáng. Ông bà đều biết khoảng cách địa lý giữa Việt Nam và Canada nhưng đã chấp nhận và hiện nay bà T cũng đã làm thủ tục xuất cảnh sang Canada để định cư cùng chồng. Bà cho rằng vợ chồng có bất đồng về một vài quan điểm sống hoặc tính tình trái ngược là chuyện bình thường, không có gì nghiêm trọng. Ông H trình bày ông H về nước nhưng vợ chồng không nói chuyện được với nhau là không đúng, bà T đã chủ động gọi điện cho ông H nhiều lần nhưng ông H không nghe máy, bà không biết lý do tại sao. Bà T có nguyện vọng được gặp trực tiếp ông H để nghe lý do, tâm tư nguyện vọng của ông. Do ở xa nên ông bà chủ yếu trao đổi qua điện thoại, có những cãi vã bất đồng nhưng không nghiêm trọng nên bà kiên quyết xin Tòa án xử không cho ly hôn.

Bà và ông H có một con chung tên là Truong H1, hiện đang sống cùng với bà. Do con còn nhỏ nên bà thấy cần có sự chăm sóc của cả cha và mẹ. Nếu Tòa xử cho ly hôn thì bà T xin được nuôi dưỡng cháu Truong H1, đồng ý mức cấp dưỡng nuôi con 700 đô la Canada/tháng, tương đương: 12.250.000 đồng/tháng. Về phương thức cấp dưỡng nuôi con: bà đề nghị cấp dưỡng một lần, chuyển vào tài khoản ngân hàng của bà T.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Tại phiên tòa sơ thẩm, Ông Truong H vắng mặt.

Bà Nguyễn Thị Nhật T trình bày : Bà T thống nhất với lời khai của ông H về việc đăng ký kết hôn, con chung.

Sau khi kết hôn, ông bà sống cùng nhau tại nhà của ông Truong H ở Phường B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh được 01 tháng, do tính chất công việc nên ông H về Canada để tiếp tục làm việc, còn bà ở lại Việt Nam. Ngày 17/5/2016 bà sinh con trai đặt tên là Trương H1. Con được 01 tuổi, ông H về thăm mẹ con bà và vợ chồng chung sống với nhau được khoảng 03 tuần lễ. Khi con được 02 tuổi, ông H về Việt Nam thăm con, sau đó đưa đơn xin ly hôn bà vì lý do vợ chồng mâu thuẫn rồi lại về Canada. Bà không đồng ý với lý do này vì bà và ông H chung sống với nhau chỉ khoảng 02 tháng nên không thể phát sinh mâu thuẫn. Do chi phí con đi học hơi nhiều, bà kêu gửi tiền về cho con đi học nhưng ông không gửi, hai bên có cãi nhau qua tin nhắn điện thoại xung quanh việc ông H không gửi thêm tiền về, sau này ông H có 01 lần gửi nhưng bà tự ái không nhận đến nay. Từ khi ông H về nước, bà về sống với bên ngoại nhưng vẫn cho con về thăm bên nội; hiện nay gia đình chồng bà và bà đang làm hồ sơ di dân qua Canada; Do đó, bà không đồng ý ly hôn, yêu cầu ông H bảo lãnh bà qua Canada sống chung nếu không hợp lúc đó sẽ ly hôn.

Về con chung bà vẫn giữ nguyên yêu cầu xin nuôi con nếu phải ly hôn, ông H cấp dưỡng nuôi con 700 đô la Canada/tháng, tương đương: 12.250.000 đồng/tháng. Về phương thức cấp dưỡng nuôi con: bà đề nghị cấp dưỡng một lần, chuyển vào tài khoản ngân hàng của bà T.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu:

Nhng người tham gia tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật; về yêu cầu ly hôn của ông H: Xét thấy ông H bà T chung sống có đăng ký kết hôn nên là hôn nhân hợp pháp. Qua trình bày của đương sự trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nhận thấy mâu thuẫn giữa bà T ông H là có nhưng chưa đến mức trầm trọng, nguyện vọng xin đoàn tụ gia đình là chính đáng do đó đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Ông Truong H đang cư trú tại Canada có đơn xin ly hôn với bà Nguyễn Thị Nhật T hiện đang sinh sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại Điều 28, Điều 37, Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về tố tụng: Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông Truong H và bà Nguyễn Thị Nhật T tham gia phiên tòa vào lúc 8 giờ 00 phút ngày 28/5/2019 nhưng ông Truong H có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ quy định tại Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

[3] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Ông Truong H và bà Nguyễn Thị Nhật T có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ngày 30/9/2015 và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 2348 quyển số 12 ngày 01/10/2015 nên đây là hôn nhân hợp pháp.

Nay ông H trình bày do vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng, ông không còn tình cảm với bà T nên xin được ly hôn. Về phía bà T không đồng ý yêu cầu này, vì theo bà sau khi kết hôn vào năm 2015 đến nay do điều kiện địa lý, vợ chồng bà chỉ chung sống với nhau thời gian ngắn khoảng 02 tháng nên không phát sinh mâu thuẫn nào trầm trọng, do ông H không muốn ở Việt Nam, bà muốn cùng sang Canada sống với ông H nếu lúc đó mâu thuẫn thì mới ly hôn.

Xét thấy, thực tế do điều kiện địa lý nên ông Hiệp bà T chung sống với nhau không lâu, không có điều kiện để thực hiện nghĩa vụ vợ chồng, cùng nhau chung sống, chăm lo gia đình con cái, nhưng đây không phải là vấn đề mới phát sinh mà cả hai đã biết rõ từ lúc mới kết hôn; Căn cứ chứng cứ là các tin nhắn liên lạc qua lại giữa bà T và ông H trong thời gian tháng 3 và tháng 4 năm 2019 (do bà T cung cấp cho tòa án ngày 04/6/2019), thể hiện ông H bà T vẫn có còn có sự liên lạc, trao đổi, quan tâm lẫn nhau, vẫn cùng lo cho con chung, như tin nhắn ngày 12/3/2019: « ..Giấy tờ ly dị mình đã nộp anh không muốn rút lại, nếu em muốn giấy tờ bảo lãnh vẫn tiến hành sau khi xong hết em và con cứ thử qua đây và sống với anh, nếu như lúc đó mình có thể sống chung được thì mình làm lại từ đầu còn không được thì ít ra anh vẫn có thể chăm sóc em và con vì Ry cũng là con anh » ; khi bà T hỏi về việc làm thủ tục bảo lãnh đi Canada, ông H đã nhắn lại: »Cái này là đại biểu của khu vực anh ở hỏi lãnh sự quán giúp ; bên lãnh sự quán trả lời như vậy nhưng chưa có giấy tờ rõ ràng, anh đã nhờ họ hối lãnh sự quán gửi thư ra… »; khi bà T nhắn tin hỏi lại ông H về nội dung ông H trình bày trong bản khai gửi tòa án « được ly hôn với bà T không cần hòa giải… », thì ngày 10/4/2019 ông H đã trả lời lại « cái đó là do bên luật sư soạn chứ không phải chữ của anh, lúc anh giao cho luật sư thì anh không hế viết gì »; Bà T cũng đã cung cấp cho hội đồng xét xử phiếu hẹn trả kết quả xác minh lý lịch tư pháp của Sở tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh ngày 03/6/2019, hẹn đến ngày 17/6/2019 trả kết quả và mail trao đổi, thông báo của Bộ phận di trú thuộc cao ủy Canada tại Singapo gửi cho bà T ngày 29/5/2019 (chứng cứ do bà T cung cấp ngày 04/6/2019) để hướng dẫn làm thủ tục định cư ở Canada đối với hồ sơ số F000464864 của bà T; điều này thể hiện ông H chưa thực sự dứt khoát trong việc ly hôn với bà T, đồng thời vẫn đang tiến hành các thủ tục cần thiết để bảo lãnh bà T sang Canada, vẫn còn có ý định quay lại chung sống với mẹ con bà T, hai bên có những ý kiến bất đồng nhưng về tình cảm giữa hai bên chưa đến mức căng thẳng ; mặt khác, các tin nhắn này cũng thể hiện trẻ Truong H1 là con chung sức khỏe không được tốt, cần có sự chăm sóc của cả cha lẫn mẹ; đây cũng là lần đầu tiên ông H xin ly hôn bà T, xét thấy mâu thuẫn giữa hai bên chưa đến mức trầm trọng, do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần tạo điều kiện về thời gian cho ông H bà T có cơ hội hàn gắn nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của ông H, như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa.

Do không chấp nhận yêu cầu nguyên đơn về việc ly hôn nên hội đồng xét xử không xét về con chung, tài sản chung và nợ chung.

[4] Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn không được chấp nhận ông Hiệp phải chịu, theo quy định pháp luật.

[5] Về quyền kháng cáo: Ông Truong H và bà Nguyễn Thị Nhật T có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 28, Điều 37, Điều 40, Điều 147, Điều 227, Khoản 1 Điều 228, Điều 262, Điều 266, Điều 273, Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là ông Truong H về việc xin ly hôn với bà Nguyễn Thị Nhật T.

2. Về án phí: Ông Truong H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí ông H đã tạm nộp theo biên lai thu tiền số AA 2018/0044647 ngày 28/05/2018 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Ông H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Nhật T được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Truong H có quyền kháng cáo trong hạn 01 tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 598/2019/HNGĐ-ST ngày 05/06/2019 về ly hôn

Số hiệu:598/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về