Bản án 597/2020/HNGĐ-ST ngày 11/11/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung giữa bà P và ông N

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU PHÚ, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 597/2020/HNGĐ-ST NGÀY 11/11/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG GIỮA BÀ P VÀ ÔNG N

Ngày 11 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Phú, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 222/2020/TLST.HNGĐ ngày 08 tháng 5 năm 2020, về việc tranh chấp ly hôn, nuôi con chung theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 280/2020/QĐST- HNGĐ ngày 24 tháng 9 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 231/2020/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 10 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Châu Phú, tỉnh An Giang, giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Bà Võ Thị Mỹ P, sinh năm 1996.

Địa chỉ: ấp BTh, xã BL, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang.

Bà Võ Thị Mỹ P có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

2.Bị đơn: Ông Huỳnh Văn N, sinh năm 1987. Vắng mặt. Địa chỉ: ấp BTh, xã BL huyện Châu Phú, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

*.Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Võ Thị Mỹ P trình bày và có ý kiến như sau:

Về hôn nhân: Giữa bà Võ Thị Mỹ P và ông Huỳnh Văn N do tự tìm hiểu, quen biết nhau và tự nguyện tiến đến hôn nhân vào năm 2014, có tổ chức lễ cưới, hôn nhân lần thứ nhất của cả hai, có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số: 23, quyển số: 01/2014, ngày 16/02/2014 tại Ủy ban nhân dân xã BL, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 01 năm 2020 thì phát sinh mâu thuẩn do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, thường xuyên cự cải, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, cả hai không có tiếng nói chung, ông Huỳnh Văn N thường xuyên nhậu nhẹt, không quan tâm chăm sóc vợ con, mặc dù cả hai đã nhiều lần tìm cách hàn gắn nhưng vẫn không khắc phục được và đã ly thân từ đó cho đến nay. Nhận thấy tình cảm của vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà Võ Thị Mỹ P yêu cầu được ly hôn với ông Huỳnh Văn N.

Về con chung: Có 01 con chung chưa thành niên tên Huỳnh Nhật K, sinh ngày 24/12/2014. Hiện cháu K đang sống chung với bà Võ Thị Mỹ P. Khi ly hôn bà Võ Thị Mỹ P yêu cầu được tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng con chung chưa thành niên niên tên Huỳnh Nhật K, sinh ngày 24/12/2014 và không yêu cầu ông N phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên bà Võ Thị Mỹ P và ông Huỳnh Văn N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

*.Bị đơn ông Huỳnh Văn N đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án và Thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng ông Huỳnh Văn N không có văn bản thể hiện ý kiến gửi cho Tòa án và không có mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Phú, tỉnh An Giang phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán cho đến việc diễn biến tại phiên tòa của Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng được thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh trụng. Tòa án nhân dân huyện Châu Phú nhận định:

[2] Về tố tụng: Phiên tòa được mở lần thứ hai nhưng nguyên đơn bà Võ Thị Mỹ P có đơn đề nghị xét xử vắng mặt ghi ngày 23/10/2020, với nội dung đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt bà Võ Thị Mỹ P. Ông Huỳnh Văn N đã được Tòa án triệu tập dự phiên tòa đúng theo quy định Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, nhưng ông Huỳnh Văn N vẫn vắng mặt. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Võ Thị Mỹ P và ông Huỳnh Văn N.

[3] Về hôn nhân: Giữa bà Võ Thị Mỹ P và ông Huỳnh Văn N hôn nhân hợp pháp bởi ông bà có đăng ký kết hôn theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và Gia đình năm 2014, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Xem xét yêu cầu xin ly hôn của bà Võ Thị Mỹ P, Hội đồng xét xử nhận thấy trong cuộc sống vợ chồng của ông bà đã không còn hạnh phúc, do một bên không còn tình cảm, đã có khoảng thời gian ly thân, cả hai có những mâu thuẫn mà không thể hàn gắn được do giữa ông bà không có sự cảm thông cho nhau. Trong quá trình Tòa án xem xét giải quyết vụ án, ông Huỳnh Văn N không cung cấp ý kiến và không đến Tòa án tham dự phiên hòa giải, phiên tòa thể hiện chưa có sự quan tâm đối với yêu cầu ly hôn của bà Võ Thị Mỹ P. Điều đó chứng tỏ tình trạng hôn nhân của ông bà đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nếu duy trì cuộc hôn nhân này cũng không đem lại hạnh phúc cho cả hai. Do đó, yêu cầu ly hôn của bà Võ Thị Mỹ P là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, bà Võ Thị Mỹ P được ly hôn với ông Huỳnh Văn N.

[4] Về nuôi con chung: Theo giấy khai sinh của Huỳnh Nhật K, lời trình bày của bà Võ Thị Mỹ P thì bà và ông Huỳnh Văn N có con chung chưa thành niên tên Huỳnh Nhật K, sinh ngày 24/12/2014. Hiện cháu K đang sống chung với bà Võ Thị Mỹ P. Khi ly hôn bà Võ Thị Mỹ P yêu cầu được tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng con chung chưa thành niên niên tên Huỳnh Nhật K, sinh ngày 24/12/2014; không yêu cầu ông N phải cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy, con chung được bà Võ Thị Mỹ P giáo dục, chăm sóc, nuôi dưỡng để đảm bảo quyền lợi và sự phát triển về mọi mặt của cháu, tạo điều kiện cho cháu được ổn định về tâm sinh lý, chỗ ở, sinh hoạt và học tập; bà Võ Thị Mỹ P yêu cầu tiếp tục nuôi con chung là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Căn cứ khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, bà Võ Thị Mỹ P được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung chưa thành niên tên Huỳnh Nhật K, sinh ngày 24/12/2014. Ông Huỳnh Văn N có quyền và nghĩa vụ thăm nom con. Bà Võ Thị Mỹ P và các thành viên trong gia đình của bà Võ Thị Mỹ P không được cản trở ông Huỳnh Văn N thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Bà Võ Thị Mỹ P không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

[5]Về tài sản chung và nợ chung: Trong quá trình giải quyết vụ án bà Võ Thị Mỹ P trình bày giữa bà và ông Huỳnh Văn N không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay do không có mặt của ông Huỳnh Văn N để đối chất làm rõ các mối quan hệ này nên Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết. Nếu đương sự có tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ án khác.

[6] Về án phí: Bà Võ Thị Mỹ P là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 143, khoản 4 Điều 147, Điều 179, Điều 186, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 9, khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1.Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Võ Thị Mỹ P và ông Huỳnh Văn N. Giấy chứng nhận kết hôn số: 23, quyển số 01/2014 ngày 16/02/2014 tại Ủy ban nhân dân xã BL, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý khi bản án có hiệu lực pháp luật.

2.Về nuôi con chung:

2.1.Giao con chung chưa thành niên tên Huỳnh Nhật K, sinh ngày 24/12/2014 cho bà Võ Thị Mỹ P được tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng. Ông Huỳnh Văn N có quyền và nghĩa vụ thăm nom con. Bà Võ Thị Mỹ P và các thành viên trong gia đình của bà Võ Thị Mỹ P không được cản trở ông Huỳnh Văn N thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

2.2. Bà Võ Thị Mỹ P không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3.Về tài sản chung và nợ chung: Bà Võ Thị Mỹ P trình bày tài sản chung và nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết. Nếu đương sự có tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ án khác.

4.Về án phí: Bà Võ Thị Mỹ P phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0006453 ngày 08 tháng 5 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Phú, tỉnh An Giang. Bà Võ Thị Mỹ P đã nộp đủ.

5.Về quyền kháng cáo: Bà Võ Thị Mỹ P và ông Huỳnh Văn N vắng mặt, thời hạn kháng cáo 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

137
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 597/2020/HNGĐ-ST ngày 11/11/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung giữa bà P và ông N

Số hiệu:597/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về