Bản án 59/2021/HNGĐ-ST ngày 02/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE 

BẢN ÁN 59/2021/HNGĐ-ST NGÀY 02/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 02 tháng 06 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 09/2021/TLST- HNGĐ ngày 05 tháng 01 năm 2021 về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 70/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm: 1995. Địa chỉ: Ấp 7, xã B, thị xã G, tỉnh Tiền Giang.

2. Bđơn: Anh Hồ Quốc D, sinh năm: 1983. Địa chỉ: ấp R, xã S, huyện G, tỉnh Bến Tre. Tại phiên tòa, chị H, anh D vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khi kin, bn khai, đơn đnghmt, nguyên đơn là chNguyn ThH trình bày:

gii quyết và xét xvng Chị và anh Hồ Quốc D tự nguyện tìm hiểu, được gia đình hai bên thừa nhận, về chung sống với nhau và đăng ký kết hôn vào ngày 13/3/2019 tại Ủy ban nhân dân xã S, huyện G, tỉnh Bến Tre. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến đầu năm 2020 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung. Từ đầu năm 2020 đến nay, chị và anh D không còn sống chung, không còn liên hệ hay quan tâm gì đến nhau. Hiện tại, tình cảm vợ chồng không còn nên chị xin ly hôn anh D.

Trong thời gian chung sống, chị và anh D có 01 người con chung là Hồ Ngọc Mai Thanh, sinh ngày 16/5/2019, hiện con đang sống chung với chị. Chị có yêu cầu trực tiếp nuôi con cho đến khi con đủ 18 tuổi, không yêu cầu anh D cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do chị đang sống ở xa, bận công việc nên chị không thể đến Tòa án để giải quyết vụ án. Vì vậy, chị có yêu cầu Tòa án giải quyết, xét xử vắng mặt.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm đã thông báo, tổ chức các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, mở phiên tòa xét xử vụ án nhưng anh D đều vắng mặt không lý do.

Đi din Vin kim sát nhân dân huyn Ging Trôm phát biu ý kiến vttng và ni dung:

- Vế ttng:

Trong thời gian chuẩn bị xét xử, Thẩm phán thực hiện đúng quy định tại Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Nguyên đơn thực hiện đúng quy định tại các điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện đúng quy định tại các điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vni dung: Căn cứ các điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Nguyễn Thị H đối với anh Hồ Quốc D.

- Về con chung: Chị H được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Hồ Ngọc Mai Thanh, sinh ngày 16/5/2019. Ghi nhận chị dưỡng cho con.

H không yêu cầu anh D cấp - Về tài sản chung, nợ chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và ý kiến phát biểu của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị H khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre giải quyết ly hôn với bị đơn là anh Hồ Quốc D - cư trú tại ấp R, xã S, huyện G, tỉnh Bến Tre. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.

Chị H có đơn yêu cầu giải quyết, xét xử vắng mặt; anh D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị H, anh D.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về hôn nhân:

Chị Nguyễn Thị H và anh Hồ Quốc D tự nguyện chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật nên quan hệ hôn nhân anh chị là hợp pháp, được pháp luật tôn trọng, bảo vệ. Chị H cho rằng trong thời gian chung sống, chị và anh D phát sinh mâu thuẫn do anh chị bất đồng quan điểm và đã không sống chung với nhau đến khi chị khởi kiện là 01 năm, tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn được nên chị xin ly hôn với anh D.

Qua xác minh, cha ruột của anh D là ông Hồ Văn Ni cho biết: Khi Tòa án gửi các Thông báo mời hòa giải, ông đã thông báo cho anh D đến Tòa án để giải quyết nhưng anh D có nói với ông “Ly hôn thì ly hôn”, ông cũng có khuyên con hàn gắn, đoàn tụ nhưng không được nên ông bỏ mặt. Nay các con đã lớn, đủ chính chắn để quyết định tương lai hạnh phúc gia đình. Ông sẽ nhận các văn bản tố tụng của Tòa án thay anh D và thông báo lại cho anh D biết. Nếu anh D không đến, Tòa án cứ giải quyết vụ án theo quy định pháp luật.

Sau khi thụ lý yêu cầu khởi kiện của chị H, Tòa án đã tiến hành thông báo cho anh D tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, mục đích hòa giải cho chị H và anh D đoàn tụ nhưng anh D vắng mặt, không có ý kiến, coi như anh D bỏ mặt, không có thiện chí đoàn tụ với chị H.

Như vậy, tình trạng hôn nhân của chị H và anh D đã trầm trọng, đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn của chị H đối với anh D và đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm là có căn cứ chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Chị H khai chị và anh D sống với nhau có 01 người con chung là Hồ Ngọc Mai Thanh, sinh ngày 16/5/2019. Cháu Thanh dưới 36 tháng tuổi, hiện đang sống chung với chị H. Để đảm bảo sự ổn định trong cuộc sống và phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cháu Thanh cho chị H được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi cháu Thanh đủ 18 tuổi. Theo quy định tại Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình thì sau khi ly hôn “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con” nhưng chị H không yêu cầu anh D cấp dưỡng cho con nên Hội đồng xét xử ghi nhận. Nếu sau này, chị H có yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con thì sẽ khởi kiện bằng vụ án khác.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị H khai không có, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Nếu sau này các đương sự có tranh chấp thì có quyền khởi kiện bằng vụ án khác.

[2.4] Về án phí: Chị H phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án dân sự sơ thẩm.

Vì các ltrên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1, khoản 3 Điều 228, Điều 147, Điều 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H. Chị Nguyễn Thị H được ly hôn với anh Hồ Văn D.

2. Về con chung:

Giao con chung là Hồ Ngọc Mai Thanh, sinh ngày 16/5/2019 cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con đủ 18 tuổi. Ghi nhận chị H không yêu cầu anh D cấp dưỡng cho con. Anh D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án quyết định thay đổi việc cấp dưỡng cho con.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc của cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Chị H khai không có, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Nếu sau này các đương sự tranh chấp thì có quyền khởi kiện bằng vụ án khác.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai số 0006776 ngày 05 tháng 01 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm. Chị H đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết, nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2021/HNGĐ-ST ngày 02/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:59/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về