Bản án 581/2019/HSPT ngày 25/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 581/2019/HSPT NGÀY 25/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 464/2019/HSPT ngày 23/10/2019 đối với bị cáo Đỗ Song T, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 90/2019/HSST ngày 13/9/2019 của Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo:

ĐỖ SONG T; giới tính: Nam; sinh năm 1982; nơi sinh: tại Tp.Hồ Chí Minh; thường trú: A đường VVK, Phường B, Quận C, Tp.Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 7/12; con ông ĐVĐ và bà PTHY; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Ngày 07/5/2010, bị Tòa án nhân dân Quận 2, Tp.Hồ Chí Minh xử phạt 07 năm tù về “Tội mua bán trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/6/2015; tạm giam từ ngày 16/4/2019 (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 20 giờ 00 phút ngày 16/4/2019, Công an Phường 5, Quận 5 phối hợp với Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 5, lực lượng bảo vệ dân phố kiểm tra hành chính nhà số A đường VVK, Phường B, Quận C, do PTHY làm chủ. Khi kiểm tra đến lầu 4, trong phòng của Đỗ Song T, phát hiện 01 hộp thiếc hiệu bánh Danisa, trong hộp có 02 gói nylon chứa tinh thể không màu, T khai là ma túy. Tổ công tác đã đưa T về trụ sở Công an Phường 5, Quận 5 lập biên bản người phạm tội quả tang.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 5, T khai nhận: Vào khoảng 01 giờ ngày 14/4/2019, T gặp người bạn tên CĐ ở đường Phạm Thế Hiển, Quận 8 và hỏi mua 01 bịch ma túy, với giá 2.000.000 đồng. Khi CĐ bỏ đi thì T nhìn thấy dưới đất có 01 bịch ma túy đá có thể là của CĐ làm rớt, T nhặt đem về nhà, cất 02 bịch trong hộp bánh Danisa để dành sử dụng và bị bắt giữ như nêu trên. T quen CĐ do ở tù chung, sau khi ra tù có uống cà phê chung với nhau vài lần nên biết CĐ bán ma túy, nên hỏi mua. T đã mua ma túy lần đầu cách đó khoảng 02 tháng, không rõ ngày, lần thứ 2 là ngày 14/4/2019. T đã sử dụng ma túy trước ngày bị bắt khoảng 02 tháng.

Kết luận giám định số 921/KLGĐ-H ngày 22/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận:

- Tinh thể không màu được ký hiệu M1 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 5,9854 gam loại Methamphetamine.

- Tinh thể không màu được ký hiệu M2 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,6464 gam loại Ketamine.

Vật chứng vụ án:

- 02 gói ma túy ở thể rắn, 01 gói có khối lượng 5,9854 gam loại Methamphetamine và 01 gói 0,6464 gam loại Ketamine;

- 01 hộp thiếc có chữ Danisa, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy, 01 ĐTDĐ có chữ Sony.

Bản án hình sự sơ thẩm số 90/2019/HSST ngày 13 tháng 9 năm 2019 của Tòa án nhân dân Quận 5 đã áp dụng điểm n khoản 2 Điều 249; Điều 38, 50; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Đỗ Song T 07 năm 06 tháng tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy ”.

Ngày 19 tháng 9 năm 2019, bị cáo T có đơn kháng cáo với nội dung xin được giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo Đỗ Song T giữ nguyên nội dung kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu nhận định như sau: Với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm, có căn cứ xác định: Ngày 16/4/2019, bị cáo Đỗ Song T bị phát hiệt bắt quả tang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy ở thể rắn, có khối lượng 5,9854 gam loại Methamphetamine và 0,6464 gam loại Ketamine nhằm mục đích sử dụng. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xét xử bị cáo về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” là có căn cứ, đúng pháp luật. Sau xét xử sơ thẩm, bị cáo có đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt, đơn kháng cáo làm trong thời hạn luật định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm. Xét, bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy ở thể rắn có khối lượng 5,9854 gam loại Methamphetamine và 0,6464gam loại Ketamine, nhằm mục đích sử dụng, nên mức hình phạt 07 năm 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và đặc điểm nhân thân của bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không bổ sung được tình tiết giảm trách nhiệm hình sự nhẹ mới, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 90/2019/HSST ngày 13 tháng 9 năm 2019 của Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo T không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát, nói lời sau cùng bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Ngày 16/4/2019, tại phòng ở của bị cáo Đỗ Song T lầu 4 nhà số A đường VVK, Phường B, Quận C, Tp.Hồ Chí Minh, bị cáo T bị Công an Quận 5, Tp.Hồ Chí Minh phát hiện bắt quả tang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy ở thể rắn, có khối lượng 5,985gam, loại Methamphetamine và 0.6464gam, loại Ketamine, nhằm mục đích sử dụng. Với hành vi phạm tội như trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” và áp dụng điểm n khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xét xử đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan sai.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 19 tháng 9 năm 2019, bị cáo T có đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt. Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong thời hạn luật định nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo xin được giảm hình phạt, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy: Khi xét xử sơ thẩm, Hội đồng xét xử đã xem xét T diện vụ án, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội và áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đó là bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu; tuy nhiên khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ là tương đối lớn thuộc trường hợp quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự và trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân không tốt, đã bị xét xử về tội mua bán trái phép chất ma túy, nhưng thiếu ý thức tu dưỡng bản thân thành người lương thiện mà lại tiếp tục phạm tội mới, mức hình phạt 07 năm 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên là tương xứng với tính chất, mức độ, động cơ phạm tội và đặc điểm nhân thân của bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không bổ sung được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên mức hình phạt của bản án hình sự sơ thẩm số 90/2019/HSST ngày 13/9/2019 của Tòa án nhân dân Quận 5. Đây cũng là lập luận để chấp nhận quan điểm đề nghị giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

[3] Về án phí: Do không chấp nhận kháng cáo, nên bị cáo T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

[4] Các nội dung khác của Bản án hình sự sơ thẩm do không bị kháng cáo, kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 - Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đỗ Song T, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 90/2019/HSST ngày 13 tháng 9 năm 2019 của Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Căn cứ điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Đỗ Song T 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 16/4/2019.

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Đỗ Song T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

Các nội dung khác của Bản án hình sự sơ thẩm do không bị kháng cáo, kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

106
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 581/2019/HSPT ngày 25/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:581/2019/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về