Bản án 574/2018/HSST ngày 24/12/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH A

BẢN ÁN 574/2018/HSST NGÀY 24/12/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 24 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh A xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 586/2018/HSST ngày 07 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 818/2018/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo:

Dương Thị Ngọc V. Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 27/02/1982.

Nơi ĐKHKTT: Khối 5, phường X, Thành phố V, tỉnh A.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 11/12.

Họ và tên cha: Dương Văn T;  (đã chết).

Họ và tên mẹ: Dương Thị H, sinh năm 1963.

Hiện cư trú tại: Xã Liên Minh, huyện Đ, tỉnh H.

Anh, chị, em cùng mẹ khác cha có 05 người, bị cáo là con thứ nhất.

Chồng: Nguyễn Tiến H; Sinh năm: 1984 (đã ly hôn).

Con: Có 03 con; Lớn sinh năm 2006, nhỏ sinh năm 2012.

Tiền án, Tiền sự:Không có.

Nhân thân: Ngày 19/01/2017, Công an Thành phố V xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 14/9/2018 đến ngày 23/9/2018 được trả tự do, sau đó tiếp tục bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/10/2018 đến nay (có mặt).

Người bị hại: chị Trần Thị Tú O

Trú tại: Khối Cộng H, phường VT, Thành phố V – vắng mặt

Chị Nguyễn Thị L

Trú tại: khối Vĩnh Mỹ, phường VT, Thành phố V – vắng mặt

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: anh Trịnh Đình H

Trú tại: Khối 6, phường Đ, Thành phố V – vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong hai ngày 14/9/2018 và ngày 07/10/2018, tại khu vữ trước cổng đình chính chợ V thuộc phường Hồng Sơn, Thành phố V, Dương Thị Ngọc V đã thực hiện 2 vụ trộm cắp tài sản. Cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Vào khoảng 18 giờ 15 phút ngày 14/9/2018, Dương Thị Ngọc V đi xe lai từ nhà ra khu vực chợ V với mục đích tìm xem có ai sơ hở để trộm cắp tài sản. Khi đi đến trước khu vực Ban quản lý Chợ V thuộc khối 2, 3 (giao giữa khối 2 và khối 3) phường S, Thành phố V thì thấy chị Trần Thị Tú O , Trú tại: Khối Cộng H, phường VT, Thành phố V đang ngồi trên xe máy điện mua rau. V quan sát thấy chị S để chiếc điện thoại di động Iphone 6 Plus trong khay đựng đồ dưới ổ khóa xe máy điện. Lợi dụng lúc chị S đang mua đồ không để ý, V đi lại gần chị O rồi dùng tay lấy chiếc điện thoại nêu trên rồi bỏ chạy được khoảng 3 mét thì bị chị O phát hiện hô hoán rồi đuổi theo phối hợp cùng quần chúng nhân dân bắt quả tang, thu giữ trên tay Dương Thị Ngọc V 01 điện thoại di động Iphone 6 Plus. Dương Thị Ngọc V cùng tang vật được đưa về trụ sở Công an phường S lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 204/KL-ĐGTS ngày 19/9/2018 của Hội đồng định giá tài sản Thành phố V, tỉnh A kết luận: "01 điện thoại Iphone 6 Plus màu vàng trắng đã qua sử dụng có trị giá 3.500.000 đồng".

Ngày 23/9/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố V đã ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú để điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật.

Vụ thứ hai: Vào khoảng 17 giờ 30 ngày 07/10/2018, V đi xe máy BKS 37B2-49314 của mẹ ruột là bà Dương Thị H, trú tại: Xóm 6, Liên Minh,  huyện T, tỉnh H đến khu vực Chợ V với mục đích trộm cắp tài sản. Khi đến cổng chợ V thì V phát hiện chị Nguyễn Thị L,  trú tại: khối Vĩnh Mỹ, phường VT, Thành phố V đang điều khiển chở phía sau con nhỏ đang dừng xe trước Đình chính cổng chợ V thuộc địa phận khối 2,3 (giao giữa khối 2 và khối 3) phường S để mua hàng. Phát hiện trong khay đựng đồ bên trái phía dưới tay lái xe máy chị Lộc đang điều khiển có 01 điện thoại. V đi lại gần rồi lợi dụng lúc chị L không để ý, V đã lấy chiếc điện thoại của chị L cất trong khay đựng đồ rồi bỏ đi. Sau khi lấy được điện thoại bị cáo kiểm tra thì mới biết đó là điện thoại Iphone 6 Plus. Rồi V đi đến cửa hàng điện thoại Gia Long ở số 122 đường Đinh Công Tráng bán cho anh Trịnh Đình H, trú tại: khối 6, phường Đ, Thành phố V lấy 1.000.000 đồng rồi đi về.

Đến ngày 08/10/2018, biết được hành vi của mình là sai trái nên Dương Thị Ngọc V đã đến Công an phường S đầu thú và tự nguyện chuộc lại điện thoại để trả cho bị hại.

Tại Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 214/KL-ĐGTS ngày 12/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản Thành phố V, tỉnh A kết luận:

"01 điện thoại Iphone 6 Plus màu vàng hồng đã qua sử dụng có trị giá 4.000.000 đồng".

Cáo trạng số 06/CT-VKSTP ngày 07/12/2018 của VKSND thành phố V truy tố bị cáo Dương Thị Ngọc V về tội "Trộm cắp tài sản", quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên cáo trạng truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng khoản 1 điều 173, điểm b,s khoản 1 điều 51, khoản 2 điều 51, điểm g khoản 1 điều 52 BLHS, xử phạt: Dương Thị Ngọc V từ 09 - 12 tháng tù.

Về phần dân sự: Chị Trần Thị Tú O và chị Trần Thị L đã nhận lại tài sản không hư hỏng mất mát gì nên chị S và chị Lộc không có yêu cầu gì khác. Dương Thị Ngọc V đã trả lại số tiền 1.000.000 đồng cho anh Trịnh Đình H nên anh Hạnh không có yêu cầu gì.

Bị cáo không có ý kiến gì tranh luận, mà chỉ xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung: Tại phiên toà, bị cáo Dương Thị Ngọc V đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Xét lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, lời khai người bị hại, người liên quan,biên bản phạm tội quả tang, nội dung cáo trạng truy tố, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở khẳng định: Vào håi 18 giờ 15 phút ngày 14/9/2018, lợi dụng sự sơ hở của chị Trần Thị Tú O, Dương Thị Ngọc V đã lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu vàng trắng có giá trị 3.500.000 đồng thì bị phát hiện bắt quả tang. Trong thời gian tại ngoại chờ xử lý thì đến khoảng 17 giờ 30 phút ngày 07/10/2018, lợi dụng sự sơ hở của chị Nguyễn Thị L, Dương Thị Ngọc V đã lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu vàng hồng có giá trị 4.000.000 đồng. Hành vi nêu trên mà bị cáo Dương Thị Ngọc V thực hiện đã phạm vào tội "Trộm cắp tài sản" tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS.

[3]. Về tính chất vụ án: vụ án thuộc loại ít nghiêm trọng, nhưng  hành vi bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người bị hại, gây mất an ninh trật tự trên địa bàn thành phố V. Nhân thân bị cáo đã bị xử lý hành chính về hành vi trộm cắp tài sản nhưng do hám lợi nên lại tiếp tục phạm tội, trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang được tại ngoại chờ cơ quan điều tra xử lý bị cáo không thể hiện sự ăn năn hối cải của bản thân mà lại tiếp tục phạm tội chứng tỏ ý thức pháp luật kém. Việc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết để cải tạo giáo dục bị cáo. Tuy nhiên cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt do có thái độ khai báo thành khẩn, sau khi phạm tội đã tự nguyện đến cơ quan điều tra đầu thú và giao nộp lại sản trả lại cho người bị hại, các tình tiết đó được quy định tại điểm b,s khoản 1, khoản 2 điều 51 BLHS. Về tình tiết tăng nặng bị cáo thực hiện 2 hành vi phạm tội nên phải chịu trách nhiệm hình sự theo điểm g khoản 1 điều 52 BLHS.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập không ổn định nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung.

[5].  Về trách nhiệm dân sự: chị Trần Thị Tú O và chị Trần Thị L đã nhận lại tài sản không hư hỏng mất mát gì nên chị S và chị Lộc không có yêu cầu gì khác. Dương Thị Ngọc V đã trả lại số tiền 1.000.000 đồng cho anh Trịnh Đình H nên anh H không có yêu cầu gì nên miễn xét.

[6]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b,s khoản 1 Điều 51, khoản 2 điều 51, điểm g khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt: Dương Thị Ngọc V 07 (Bảy) tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản".Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/10/2018 nhưng được trừ đi thời gian đã tạm giữ trước đó từ ngày 14/9/2018 đến ngày 23/9/2018.

- Án phí: áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326/2017/UBTVQH14 ngày  30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Dương Thị Ngọc V phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền và nghĩa vụ liên quan vắng mặt trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

135
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 574/2018/HSST ngày 24/12/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:574/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/12/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về