TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 566/2019/HNGĐ-ST NGÀY 19/09/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 19 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Long Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 378/2019/TLST-HNGĐ ngày 06/6/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2019/QĐXX-ST ngày 09/8/2019 và quyết định hoãn phiên toà ngày 30/8/2019 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Đặng Thị M - Sinh năm 1961 (Có mặt)
HKTT: Số 16 ngách 102/55 HĐT, phường KG, quận TX, thành phố Hà Nội.
Bị đơn: Ông Đinh Mạnh C - Sinh năm 1963 (Vắng mặt)
HKTT: Số 6 ngõ 26 NH, phường ĐC, quận BĐ, thành phố Hà Nội.
Hiện ở: Số 49 ngõ 354 BC, tổ 38, phường NT, quận Long Biên, thành phố Hà Nội.
NỘI DUNG VỤ ÁN
*Tại đơn ly hôn và các lời khai tại Tòa, nguyên đơn là bà Đặng Thị M trình bày:
Bà và ông Đinh Mạnh C xây dựng gia đình trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 16/10/1984 tại UBND phường CD, quận HBT, thành phố Hà Nội. Sau khi kết hôn, ông bà chung sống hòa thuận đến năm 1985 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu là do ông C là người đàn ông gia trưởng, không tâm lý, không yêu thương, quan tâm đến cuộc sống gia đình, vợ con. Ngoài ra, ông C là người nghiện rượu, thường xuyên say xỉn, không làm chủ được hành vi nên hay đập phá đồ đạc, chửi bới, đánh đập bà. Năm 2009, ông bà mâu thuẫn trầm trọng và đã ly thân nhau. Bà về ở cùng với bố mẹ đẻ tại KG, quận TX, thành phố Hà Nội. Ông C về ở cùng với vợ chồng con trai tại phường NT, quận Long Biên, thành phố Hà Nội. Nay bà xác định tình cảm vợ chồng không còn, kiên quyết xin ly hôn ông C.
- Về con chung: Ông, bà có 01 con chung là Đinh Mạnh C’ - sinh năm 1985 (Nam), đã thành niên, có gia đình riêng, đang sống cùng ông C.
- Về tài sản chung: Bà không yêu cầu Toà án giải quyết.
- Về nợ chung: Không có. Nếu sau này phát sinh tranh chấp về công nợ bà xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
* Bị đơn - ông Đinh Mạnh C đã được Toà án nhân dân quận Long Biên nhiều lần triệu tập, thông báo, niêm yết công khai hợp lệ đến để trình bày nguyện vọng trước yêu cầu xin ly hôn của bà M nhưng ông vẫn vắng mặt không có lý do.
Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện như đã trình bày. Bị đơn là ông Đinh Mạnh C mặc dù đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt ông theo quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án như sau:
- Quá trình tiến hành tố tụng Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ thủ tục theo quy định của pháp luật.
- Đối với việc chấp hành pháp luật của cỏc đương sự:
+ Nguyên đơn chấp hành đảm bảo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
+ Bị đơn không chấp hành đầy đủ, chống đối không đưa ra tài liệu chứng cứ để bảo vệ quyền lợi cho mình.
*Về nội dung vụ án: Mâu thuẫn giữa bà M, ông C đã trầm trọng kéo dài. Ông, bà đã ly thân từ năm 2009 đến nay. Xột thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng kéo dài, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn.
- Về con chung: Ông, bà có 01 con chung đó thành niờn nờn khụng xem xột.
- Về tài sản chung và công nợ: Đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét do đương sự không yêu cầu Tòa giải quyết.
- Về án phí: Bà M phải chịu toàn bộ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
1- Về thủ tục tố tụng:
- Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Đặng Thị M xin ly hôn ông Đinh Mạnh C có hộ khẩu thường trú tại số 6 ngừ 26 NH, phường ĐC, quận BĐ, thành phố Hà Nội. Qua xác M thu thập chứng cứ tại Công an phường NT, quận Long Biên, thành phố Hà Nội thì hiện nay ông C đang cư trú, sinh sống, ăn ở tại địa chỉ: Số 49 ngừ 354 BC, phường NT, quận Long Biên, thành phố Hà Nội. Ngoài ra, ông C không có nơi cư trú nào khác. Do vậy, việc bà M khởi kiện là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội. Bị đơn – ông Đinh Mạnh C trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã thực hiện đầy đủ thủ tục theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, được toà án triệu tập nhiều lần nhưng đều vắng mặt. Ngày 30/8/2019, Toà án mở phiên toà lần thứ nhất để xét xử vụ án nhưng ông C vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà để xét xử vào ngày 19/9/2019. Tại phiên toà ngày 19/9/2019, ông C tiếp tục vắng mặt, xét thấy đây là lần thứ hai ông C vắng mặt tại phiên toà không có lý do mặc dù đã được Toà án tống đạt hợp lệ, nên Toà án tiến hành xét xử vắng mặt ông C là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.
2- Về nội dung vụ án:
- Về quan hệ hôn nhân: Bà Đặng Thị M và ông Đinh Mạnh C kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu và đi đến hôn nhân vào năm 1984, vợ chồng có đăng ký kết hôn vào ngày 16/10/1984 tại UBND phường CD, quận HBT, thành phố Hà Nội. Xác định đây là hôn nhân hợp pháp.
Ngay sau khi kết hôn, cuộc sống vợ chồng đã phát sinh nhiều mâu thuẫn, thường xảy ra xô xát, cãi cọ. Nguyên nhân chủ yếu là do ông C là người đàn ông gia trưởng, không quan tâm chăm sóc chia sẻ, gánh vác với vợ trong cuộc sống gia đỡnh. Bà M không tìm được tiếng nói chung từ phía người đàn ông của mỡnh nờn cú nhiều cư xử không khéo léo, vỡ thế vợ chồng ngày càng mõu thuẫn trầm trọng, không có hạnh phúc. Ông, bà chính thức ly thân và cắt đứt mọi quan hệ từ năm 2009. Quá trình giải quyết vụ án, ông C không đến Tòa, khụng xuất trình được bất cứ tài liệu chứng cứ gì để chứng M tình cảm vợ chồng vẫn cũn hoặc đưa ra giải pháp để cải thiện tình cảm vợ chồng mà có thái độ chống đối, không hợp tác với cơ quan pháp luật để bảo vệ quyền lợi cho mình. Toà án đã nhiều lần tiến hành công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông C vẫn vắng mặt không có lý do và cố tình vắng mặt trong các buổi công khai chứng cứ, hoà giải khi Toà án triệu tập thể hiện việc ông C khụng cú thiện chớ hũa giải cũng như đoàn tụ vợ chồng.
Qua trao đổi với chính quyền địa phương nơi ông C sinh sống cũng như lời khai của con trai ông bà được biết: Quá trình chung sống ông bà đã xảy ra nhiều mâu thuẫn do quan điểm, cách cư xử của ông C là người gia trưởng, nóng tính nên ông bà đã có những xô xát trầm trọng. Cuộc sống vợ chồng ông bà không có hạnh phúc và đã ly thân nhiều năm nay. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy rằng cuộc sống chung giữa bà M và ông C không thể kéo dài do mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, yêu cầu xin ly hôn của bà M là có căn cứ và phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, cần được chấp nhận.
- Về con chung: Bà M và ông C có một con chung là: là Đinh Mạnh C’ - sinh năm 1985 (Nam), đã thành niên có gia đình riêng nên Hội đồng xét xử không xét.
- Về tài sản chung và công nợ: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xét.
Quá trình giải quyết vụ án cho đến trước khi Toà án công khai chứng cứ và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử ông C là bị đơn không có yêu cầu phản tố nên Toà án không xét. Nếu sau này phát sinh tranh chấp các đương sự có quyền khởi kiện đến Toà án bằng một vụ án khác theo quy định của pháp luật.
- Về án phí: Bà M phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng chẵn) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
Từ những nhận định trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
- Căn cứ vào Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.
- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Đặng Thị M đối với ông Đinh Mạnh C. Bà Đặng Thị M được ly hôn ông Đinh Mạnh
2. Về con chung: Bà M và ông C cã mét con chung là: là Đinh Mạnh C’- sinh năm 1985 (Nam), đã thành niên nên Hội đồng xét xử không xét.
3. Về tài sản chung, cụng nợ chung: Các đương sự không yờu cầu nờn khụng xem xột giải quyết. Nếu sau này phát sinh tranh chấp về tài sản, công nợ các đương sự có quyền yêu cầu giải quyết bằng vụ án khác theo quy định của pháp luật.
4. Về án phí: Bà Đặng Thị M phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng chẵn) án phí hôn nhân gia đình. Xác nhận bà M đã nộp tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng chẵn) theo biên lai số 0001753 ngày 06/6/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Long Biên, thành phố Hà Nội. Nay chuyển thành án phí.
Bà Đặng Thị M có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ông Đinh Mạnh C vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hợp lệ./.
Bản án 566/2019/HNGĐ-ST ngày 19/09/2019 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 566/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 19/09/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về