Bản án 56/2021/HS-ST ngày 06/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH B

BẢN ÁN 56/2021/HS-ST NGÀY 06/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 06/5/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố B, Tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 48/2021/HSST ngày 09/4/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2021/QĐXXST – HS ngày 22/4/2021 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Phùng Văn T, sinh năm 1993; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn Tồng Càn, xã H, huyện C, tỉnh LS; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Nùng; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hoá: 10/12; Con ông: Phùng Văn T, sinh năm 1973; Con bà: Lô Thị V, sinh năm 1974, hiện cư trú thôn Tồng Càn, xã H, huyện C, tỉnh LS; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là thứ nhất; Vợ, con: Chưa có.

- Tiền án: Ngày 19/6/2018, bị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh LS xử phạt 01 năm 08 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt ngày 02/9/2019. Đã chấp hành án phí hình sự sơ thẩm ngày 19/6/2018.

- Tiền sự: Ngày 16/11/2020, bị Công an xã TM, Thành phố B xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

- Bị cáo bị bắt quả tang, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/01/2021 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam, Công an Tỉnh B và có mặt tại phiên tòa.

Người chứng kiến:

1.Ông Nguyễn Bá T, sinh năm 1968 (Vắng mặt) Địa chỉ: Số 98, đường Nguyễn Công H, phường Trần Nguyên H, Thành phố B, Tỉnh B 2.Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1970 (Vắng mặt) Địa chỉ: Số 367, đường Nguyễn Công H, phường Trần P, Thành phố B, Tỉnh B

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 23/01/2021, tại khu vực đường lên cầu Mỹ Đ, thuộc tổ 3, phường Mỹ Đ, Tổ công tác Công an phường Trần Nguyên H, Thành phố B bắt quả tang Phùng Văn T, sinh năm 1993, trú tại thôn Tồng Càn, xã H, huyện C, tỉnh LS có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 (một) gói giấy bạc có mặt ngoài màu trắng bạc, mặt trong màu trắng, bên trong có chất cục bột màu trắng do đồng chí Vũ Văn T, cán bộ Công an phường Trần Nguyên H thu tại nền đường cạnh vị trí bắt T (T khai do T thả xuống từ bàn tay phải).

Tại kết luận giám định số 150/KL-KTHS ngày 25/01/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự- Công an Tỉnh B kết luận:

“Trong 01 (một) phong bì đã được niêm phong gửi giám định: Chất cục bột màu trắng đựng trong 01 (một) gói giấy bạc mặt ngoài màu trắng bạc, mặt trong màu trắng là ma túy Heroin, có khối lượng 0,032 gam.

Về nguồn gốc số ma túy, Tkhai: Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 23/01/2021, T đi từ khu vực ngã tư Tử Thần thuộc huyện Yên Dũng, Tỉnh B lên Thành phố B với mục đích mua ma túy sử dụng. T đi đến gần 1 sân bóng chuyền khu vực bờ đê Chi L thì vào một ngõ nhỏ. Tđến một ngôi nhà cấp 4 (không biết nhà ai), Tđưa 100.000đ qua lỗ nhỏ trên tường, một lúc sau có người trong nhà đưa cho T 01 gói giấy bạc, T xác định đó là ma túy Heroin. T cầm gói ma túy trên tay đi lên bờ đê, xin đi nhờ xe máy của một người đàn ông không biết tên và địa chỉ đến khu vực đường lên cầu Mỹ Đ thì bị Công an bắt giữ, thu giữ vật chứng như trên.

Tại bản cáo trạng số 50/CT - VKS ngày 06/4/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố B đã truy tố bị cáo Phùng Văn T ra trước Tòa án nhân dân Thành phố B để xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 BLHS 2015.

Tại phiên toà: Bị cáo Phùng Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố. Viện kiểm sát truy tố bị cáo là không oan, bị cáo nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật của mình là sai, bị cáo rất hối hận, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Những người chứng kiến vắng mặt. Hội đồng xét xử công bố lời khai của những người chứng kiến vắng mặt. Bị cáo không có ý kiến gì về những lời khai đó.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố B vẫn giữ nguyên quan điểm như cáo trạng đã truy tố. Sau khi phân tích tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phùng Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

-Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt bị cáo Phùng Văn T từ 14 đến 16 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 23/01/2021.

Do bị cáo không có tài sản riêng, không có nghề nghiệp, hiện đang bị tạm giam nên không cần áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

-Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS Tịch thu tiêu hủy số ma túy Heroin còn lại sau giám định Ngoài ra, cần áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/NQ – UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh luận, trên cơ sở xem xét đầy đủ và toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, người chứng kiến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình Điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình Điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát và Kiểm sát viên đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Phùng Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình gây ra. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người chứng kiện và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 23/01/2021, tại khu vực đường lên cầu Mỹ Đ, thuộc Tổ 3, phường Mỹ Đ, Thành phố B, Tổ công tác Công an phường Trần Nguyên H, Thành phố B bắt quả tang Phùng Văn T, sinh năm 1993, trú tại thôn Tồng Càn, xã H, huyện C, tỉnh LS có hành vi tàng trữ trái phép 0,032 gam ma túy, loại Heroin mục đích để sử dụng. Phùng Văn T đã bị kết án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng chưa được xóa án tích.

[3] Như vậy, hành vi của bị cáo Phùng Văn T đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Năm 2018, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh LS xử phạt 01 năm 8 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, nay bị cáo lại phạm cùng loại tội khi chưa được xóa án tích. Do vậy, cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố B truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 BLHS 2015 là hoàn toàn có căn cứ.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật trị an xã hội địa phương. Ma tuý là hiểm hoạ xã hội, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác, nguyên nhân dẫn tới gia đình ly tán. Chỉ vì thỏa mãn nhu cầu cá nhân, bị cáo đã cố ý phạm tội. Do vậy cần phải xử lý nghiêm bị cáo bằng pháp luật hình sự mới đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi lượng hình, Hội đồng xét xử cũng xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định mức án phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo.

[5] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu. Ngày 19/6/2018, bị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh LS xử phạt 01 năm 8 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt ngày 02/9/2019. Ngày 16/11/2020 bị Công an xã TM, Thành phố B xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS cần áp dụng cho bị cáo.

[8] Xét tính chất mức độ, hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, điều luật đã viện dẫn. Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo mới chấp hành xong hình phạt tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” ngày 02/9/2019 nhưng không lấy đó làm bài học để rèn luyện, tu dưỡng bản thân mà vẫn tiếp tục phạm tội. Điều đó có thể thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục bị cáo trở thành người tốt cho xã hội.

Bị cáo không có tài sản riêng, không có công ăn việc làm do đang tạm giam nên không cần áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.

Bị cáo đang bị tạm giam nên cần tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày để đảm bảo công tác thi hành án.

[9] Đối với người đã bán ma túy cho Tâm, do Tkhông nhớ đặc điểm ngôi nhà đã mua ma túy nên Cơ quan điều tra không có căn cứ làm rõ.

[10] Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS.

Tịch thu tiêu hủy số ma túy Heroin còn lại sau giám định đựng trong 01 phong bì thư được niêm phong bằng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Tỉnh B là vật Nhà nước cấm lưu hành.

[11] Ngoài ra cần áp dụng Điều 23 Nghị quyết 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án; khoản 2 Điều 136; các Điều 331,332,333 Bộ luật tố tụng hình sự để buộc bị cáo phải chịu án phí HSST và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố: Bị cáo Phùng Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt bị cáo Phùng Văn T 14 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 23/01/2021.

-Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS Tịch thu tiêu hủy số ma túy Heroin còn lại sau giám định đựng trong 01 phong bì thư được niêm phong bằng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Tỉnh B.

- Về án phí và quyền kháng cáo: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/NQ – UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án; các Điều 331,332,333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, buộc bị cáo T phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm .

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Báo cho bị cáo có mặt biết quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 56/2021/HS-ST ngày 06/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:56/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bạc Liêu - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về