Bản án 56/2018/HSST ngày 14/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 56/2018/HSST NGÀY 14/03/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 3 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiên Du xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự  sơ thẩm thụ lý số 66/2018/TLST-HS ngày 13/02/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2018/QĐXXST-HS ngày 01/3/2018 đối với bị cáo:

Vi Văn T, sinh năm 1986

HKTT: Thôn N, xã G, huyện C, tỉnh Lạng Sơn.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 07/12

Dân tộc: Tày; Giơi tinh: Nam; Tôn giao: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vi Văn T và bà Hà Thị M

Có vợ Vũ Thị H và 01 con sinh năm 2012

Tiền án, tiền sự: Chưa có.

Bị tạm giam từ ngày 13/12/2017 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh – Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 13/12/2017 tại khu vực cây xăng P thuộc xã P, huyện T, lực lượng Công an huyện T phối hợp với Công an xã P kiểm tra, phát hiện và thu giữ tại túi phía trong bên trái của áo khoác của Vi Văn T có 01 gói bọc ngoài bằng giấy bạc bên trong chứa chất bột màu trắng. T khai nhận đó là gói chất ma túy vừa mua được chưa kịp sử dụng. Cơ quan Công an đã tiến hành niêm phong gói chất ma túy thu giữ trên người của T và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Lợi dụng sơ hở người thanh niên đi cùng T đã điều khiển xe máy bỏ chạy. Tại bản kết luận giám định số 41/KLGĐMT–PC54 ngày 13/12/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh đã kết luận: “Chất bột màu trắng bên trong 01 gói bọc ngoài bằng giấy bạc màu trắng, mặt bên trong màu vàng có trọng lượng 0,1825 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Heroine”.

Cáo trạng số 23/CT - VKSTD ngày 12/02/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyên Tiên Du đa truy tô bị cáo Vi Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điêu 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận: Bị cáo nghiện ma túy nên sáng ngày 13/12/2017 bị cáo đi xe bus từ thành phố H về thị xã T để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đến bến xe T bị cáo gặp một người thanh niên không quen biết cũng có nhu cầu sử dụng ma túy. Vì vậy bị cáo đưa cho người thành niên 200.000 đồng sau đó ngồi sau xe máy do người thanh niên điều khiển đi đến khu vực phường Đn. Bị cáo đứng đợi bên ngoài còn người thanh niên vào mua ma túy. Một lúc sau người thanh niên quay lại và đưa cho bị cáo 01 gói ma túy. Bị cáo cất giấu trong túi phía trong bên trái của áo khoác rồi ngồi sau xe máy do người thanh niên điều khiển đi về huyện T tìm nơi sử dụng. Khi về đến khu vực cây xăng P thì bị lực lượng Công an phát hiện và thu giữ 01 gói ma túy. Bị cáo không biết rõ lai lịch cụ thể của người thanh niên đi cùng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo Cáo trạng số 23/CT- VKSTD ngày 12/02/2018. Trong phần luận tội đã phân tích nguyên nhân, tính chất, mức độ nguy hiểm cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Vi Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo T tư 18 tháng đến 22 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 13/12/2017. Không áp dụng hình phạt bổ sung.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự ; điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư chứa mẫu vật còn lại sau giám định.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo sau khi nghe luận tội của đai diên Viên kiêm sát nhân dân huyện Tiên Du thừa nhận có tội, không tranh luận ma chi xin giảm nhẹ hinh phat.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Sáng ngày 13/12/2017 tại khu vực cây xăng P thuộc xã P, huyện T, bị cáo T có hành vi cất giữ 01 gói ma túy loại Heroin trọng lượng 0,1825 gam tại túi phía trong bên trái của áo khoác. Như vậy hành vi bị cáo thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Tuy nhiên Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định hình phạt nhẹ hơn có lợi cho bị cáo nên căn cứ điểm b khoản 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội, Hội đồng xét xử áp dụng Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 để xét xử đối với bị cáo. Cáo trạng truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Ngoài ra hành vi của cac bị cáo làm tăng nguy cơ lây truyền vi rút HIV trong cộng đồng, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển tương lai giống nòi, nguyên nhân phát sinh nhiều tội phạm khác... gây khó khăn trong công tác phòng chống tệ nạn xã hội. Hội đồng xét xử xét thấy cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục cải tạo và phòng ngừa chung.

Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo chưa có tiền án tiền sự nhưng là đối tượng nghiện ma túy. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân. Bị cáo là người dân tộc Tày, thuộc diện hưởng trợ giúp pháp lý nhưng từ chối. Vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về hình phạt bổ sung: Xét hoàn cảnh kinh tế, hậu quả của hành vi phạm tội Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Mẫu vật còn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy.

Liên quan trong vụ án có người thanh niên chở bị cáo đi mua ma túy. Do bị cáo không biết rõ lai lịch cụ thể của người này nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh làm rõ. Khi nào làm rõ được sẽ xử lý sau.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Vi Văn T phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”

2. Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 33, Điều 41 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009; Điều 106, Điều 135, Điều 136, Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt bị cáo Vi Văn T 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 13/12/2017.

Tạm giam bị cáo 45 ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

3. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư hoàn trả sau giám định, được niêm phong dán kín bên ngoài có đóng dấu niêm phong và chữ ký của giám định viên Phòng kỹ thuật hình sự PC 54 Công an tỉnh Bắc Ninh (theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/03/2018).

4. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5.  Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 56/2018/HSST ngày 14/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:56/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về