Bản án 56/2018/HNGĐ-ST ngày 06/09/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HUỆ, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 56/2018/HNGĐ-ST NGÀY 06/09/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 06 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Đức Huệ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 142/2018/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 7 năm 2018 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 8 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Phan Thị Kim H - Sinh năm 1976 - Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Long An. (Vắng mặt - có đơn xin xét xử vắng mặt)

- Bị đơn: Ông Trần Văn S - Sinh năm 1976 - Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện C,tỉnh Long An. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 11/7/2018, các văn bản tiếp theo, nguyên đơn bà Phan Thị Kim H trình bày: Bà và ông Trần Văn S xác lập quan hệ vợ chồng và có đăng ký kết hôn ngày 18/4/2005 tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện C, tỉnh Long An. Chung sống hạnh phúc đến tháng 6/2017 thì xảy ra mâu thuẩn, nguyên nhân do ông S không có trách nhiệm với gia đình, không chịu làm ăn, thường xuyên nhậu nhẹt say xỉn, về nhà còn kiếm chuyện chửi mắng, đánh đập bà, có mối quan hệ bất chính với người phụ nữ khác. Ly thân từ tháng 6/2018 cho đến nay.

Về hôn nhân: Bà yêu cầu ly hôn với ông Trần Văn S.

Về nuôi con chung: Có 02 con chung tên Trần Quang L, sinh ngày 29/4/1998 và Trần Như N, sinh ngày 26/3/2005 - hiện 02 con chung đang sống với bà. Khi ly hôn, con chung Trần Quang L đã thành niên không yêu cầu giải quyết; con chung Trần Như N bà yêu cầu xem xét nguyện vọng con chung nếu con chung có nguyện vọng sống với ai thì người đó nuôi, người còn lại không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về chia tài sản chung, nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nguyên đơn bà H có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn ông S vắng mặt tại các phiên hòa giải và tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Bà Phan Thị Kim H khởi kiện yêu cầu ly hôn ông Trần Văn S, Tòa án nhân dân huyện Đức Huệ tỉnh Long An thụ lý giải quyết vụ án là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

 [2] Ông Trần Văn S được tống đạt hợp lệ các thủ tục tố tụng của Tòa án nhưng ông S không cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh cho quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của ông, không có mặt để tham gia phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét đơn khởi kiện của bà H theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Ông S không được quyền khiếu nại về việc cung cấp chứng cứ, tham gia hòa giải và tham gia phiên tòa vì ông đã không có mặt theo thông báo và giấy triệu tập của Tòa án, không thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông theo quy định pháp luật.

 [3] Bà Phan Thị Kim H và ông Trần Văn S chung sống có đăng ký kết hôn ngày 18/4/2005 tại Uỷ ban nhân dân xã B, huyện C, tỉnh Long An. Quan hệ hôn nhân giữa bà H và ông S là hôn nhân hợp pháp theo quy định của pháp luật Hôn nhân và gia đình.

 [4] Xét yêu cầu ly hôn của bà H, Hội đồng xét xử nhận định: Bà H cho rằng vợ chồng xảy ra mâu thuẩn nguyên nhân do ông S không có trách nhiệm với gia đình, không chịu làm ăn, thường xuyên nhậu nhẹt say xỉn, về nhà còn kiếm chuyện chửi mắng, đánh đập bà, có mối quan hệ bất chính với người phụ nữ khác. Ông S vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án và cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình nên không có căn cứ xem xét; qua lời trình bày của bà H, Hội đồng xét xử nhận định mâu thuẩn giữa bà H và ông S đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, ông bà đã ly thân và tự mỗi người lo cho bản thân, không quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Do đó, việc bà H yêu cầu ly hôn với ông S là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

 [5] Về nuôi con chung: Con chung Trần Quang L, sinh ngày 29/4/1998 đã thành niên, không yêu cầu nên không đề cập giải quyết; con chung Trần Như N, sinh ngày 26/3/2005 bà H yêu cầu xem xét nguyện vọng con chung, xét con chung có nguyện vọng sống với bà H, từ khi bà H và ông S ly thân con chung do bà H nuôi dưỡng, ông S vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, không cung cấp tài liệu, chứng cứ thể hiện tranh chấp quyền nuôi dưỡng con. Vì vậy, nên giao con chung Trần Như N cho bà H tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

 [6] Xét việc bà H không yêu cầu ông S cấp dưỡng nuôi con chung là tự nguyện, phù hợp quy định tại các Điều 82, 107, 110, 116 và 118 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên ghi nhận.

 [7] Về chia tài sản chung và nợ chung: bà H trình bày không có, không yêu cầu nên không xem xét. Nếu sau này phát sinh tranh chấp tách ra giải quyết bằng vụ án khác.

 [8] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, xét thấy:

 [9] Bà H là nguyên đơn trong vụ án ly hôn nên phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn, nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp. Bà H đã nộp đủ án phí.

 [10] Ông S không phải chịu tiền án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1Điều 39, Điều 147, khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, các Điều 51, 56, 81, 82, 107, 110, 116 và 118 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Về hôn nhân: Bà Phan Thị Kim H được ly hôn với ông Trần Văn S.

2. Về nuôi con chung:

Con chung Trần Quang L, sinh ngày 29/4/1998 đã thành niên, không yêu cầu nên không đề cập giải quyết.

Bà Phan Thị Kim H được quyền trực tiếp nuôi con chung Trần Như N, sinh ngày 26/3/2005 (theo nguyện vọng của con chung), hiện đang sống với bà H. Ông Trần Văn S không phải cấp dưỡng nuôi hai con chung.

Ông S được quyền thăm nom và chăm sóc con chung, khi cần thiết vì lợi ích con chung, bà H và ông S có quyền yêu cầu thay đổi tình trạng nuôi con và yêu cầu thay đổi khoản cấp dưỡng nuôi con theo luật hôn nhân và gia đình.

3. Về chia tài sản chung và nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Phan Thị Kim H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghì đồng) tiền án phí ly hôn, khấu trừ 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp (theo biên lai thu số 0008404 ngày 17/7/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Huệ). Bà H đã nộp đủ tiền án phí.

5. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 56/2018/HNGĐ-ST ngày 06/09/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:56/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Huệ - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về