Bản án 558/2020/DS-PT ngày 19/06/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 558/2020/DS-PT NGÀY 19/06/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 6 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 156//TLPT-DSPT ngày 13 tháng 02 năm 2020 về việc “Tranh chấp Hợp đồng vay tài sản”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số: 934/2019/DS-ST ngày 29/11/2019 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2375/2020/QĐ-PT ngày 11 tháng 5 năm 2020, giữa các đương sự;

Nguyên đơn: Bà T T T (S), sinh năm 1954.

Địa chỉ: số nhà 05 Đường số 27, Khu phố 2, phường L, quận T, Thành phố H.

Người đại diện theo uỷ quyền: Ông L X H, sinh năm; 1980 Địa chỉ: số nhà 15/9 đường Ụ Ghe, Khu phố 2, phường T, quận T, Thành phố H (có mặt).

Bị đơn: Ông N N T, sinh năm 1957 Địa chỉ: số nhà 13 Đường số 25, Khu phố 2, phường L, quận T, Thành phố H (có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông H V H, sinh năm 1951.

Địa chỉ: số nhà 05 Đường số 27, Khu phố 2, phường L, quận T, Thành phố H (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tóm tt nội dung vụ án và quyết định của bản án sơ thẩm như sau:

Tại đơn khởi kiện ngày 28 tháng 11 năm 2018 bà T T T và lời trình bày của người đại diện theo ủy quyền ông L X H trình bày:

Bà T T T có tên thường gọi là S và ông N N T là hàng xóm. Từ năm 2015 đến tháng 8 năm 2018 bà T cho ông T vay nhiều lần tiền theo hình thức trả ngày hoặc trả tháng với mức lãi suất 2%/tháng. Đến nay ông T còn nợ bà T số tiền 200.000.000đ (Hai trăm triệu đồng) của khoản vay ngày 27/4/2017 nhưng không thanh toán, toàn bộ các khoản vay khác ông T đã thanh toán đủ. Vì vậy bà T yêu cầu ông T thanh toán số tiền nợ gốc 200.000.000đồng, yêu cầu ông T phải thanh toán tiền lãi suất theo mức lãi suất 1,5%/tháng từ tháng 8/2018, tạm tính 21.000.000đồng. Tại phiên tòa phía nguyên đơn tự nguyện rút yêu cầu bị đơn (ông T) trả tiền lãi suất cho khoản vay này mà chỉ yêu cầu ông T thanh toán số tiền nợ gốc là 200.000.000đ (Hai trăm triệu đồng).

Bị đơn: Ông N N T trình bày:

Ông thừa nhận có vay của vợ chồng bà N T T (S) nhiều lần và đã thanh toàn đầy đủ. Cụ thể: Số tiền 200.000.000đ (Hai trăm triệu đồng) ông vay ngày 27/4/2018 ông đã trả vào ngày 01/8/2018 nên ông không còn nợ tiền của bà S. Ông xác định bà T chính là bà S mà ông giao dịch vay tiền. Việc giao dịch vay tiền chỉ có ông thực hiện với vợ chồng bà T, vợ ông bà P T X không tham gia. Hiện ông T đã thanh toán đầy đủ nợ gốc và lãi cho bà T nên ông không có trách nhiệm thanh toán cho bà T nữa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông H V H trình bày:

Ông là chồng của bà T T T, số tiền bà T cho ông T vay là tiền chung của vợ chồng, ông thống nhất với ý kiến trình bày của bà T và yêu cầu ông T thanh toán cho vợ chồng ông số tiền 200.000.000đ (Hai trăm triệu đồng). Số tiền 200.000.000đ (Hai trăm triệu đồng) ông đã nhận của ông T là ông T trả tiền gốc cho một khoản nợ vay khác.

Tại bản án sơ thẩm số 934/2019/DS- ST ngày 29 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân quận T, Thành phố H đã quyết định:

Căn cứ Khoản 3 Điều 26; điểm a Khoản 1 Điều 35; Khoản 1 Điều 147; Khoản 1, Khoản 2 Điều 269; Điều 271 và Khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 463; 466 và 468 Bộ luật dân sự năm 2015;

Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã sửa đổi bổ sung năm 2014).

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T T T(S) về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” đối với ông N N T.

Ông N N T có trách nhiệm thanh toán cho bà T T T và ông H V H số tiền 200.000.000đ (Hai trăm triệu đồng).

Kể từ ngày bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án nếu bên phải thi hành án không thi hành án, thì hàng tháng còn phải chịu tiền lãi đối với số tiền chưa thi hành theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

2. Đình chỉ giải quyết yêu cầu của bà T T T(S) đối với số tiền lãi suất 21.000.000đ (Hai mươi mốt triệu đồng).

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo và nghĩa vụ thi hành án theo luật định.

Ngày 12/12/2019, Ông N N T kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại bản án sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của bà Tươi(Soi) lý do ông T đã trả hết số tiền nợ gốc, ông không còn nợ bà T(S).

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Người kháng cáo là ông N N T yêu cầu: Tòa án không chấp nhận đơn khởi kiện của bà T(S), với lý do ông T đã trả hết các khoản vay của vợ chồng bà T(S). Nên ông T không đồng ý trả cho vợ chồng bà T(S), ông H số tiền 200.000.000đ (Hai trăm triệu đồng) như Tòa cấp sơ thẩm đã tuyên. Tại phiên tòa ông T không có chứng cứ gì thêm để nộp cho Hội đồng xét xử.

Ông L X H - Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà N T T(S) trình bày: Không đồng ý với yêu cầu kháng cáo của ông T, yêu cầu cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Kiểm sát viên phát biểu:

Về tố tụng: Thẩm phán. Hội đồng xét xử chấp hành đúng pháp luật; các đương sự đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.

Về hình thức: Đơn kháng cáo của ông N N T trong hạn luật định.

Về nội dung:

Nguyên đơn là bà NT T(S) đã nhiều lần cho bị đơn là ông N N T vay tiền với nhiều khoản vay khác nhau, trong đó có khoản vay 200.000.000đ (Hai trăm triệu đồng) vào ngày 27/4/2018, ông T cho rằng đã thanh toán hết số tiền trên cho phía nguyên đơn vào ngày 15/7/2018 nhưng không có chứng cứ chứng minh, phía nguyên đơn không thừa nhận việc ông Thư đã thanh toán hết khoản vay trên mà cho rằng vào ngày 01/8/2018 ông T có trả 200.000.000đ (Hai trăm triệu đồng) nhưng đây là số nợ gốc của ngày 12/10/2017, căn cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì khoản vay của ngày 27/4/2018 không có thể hiện việc ông T đã thanh toán hết số tiền trên cho vợ chồng bà T(S), nên việc bà N T T(S) khởi kiện đòi ông N N T trả lại số tiền là có cơ sở. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông N N T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

Ngày 29/11/2019, Tòa án nhân dân Quận T, Thành phố H ban hành Bản án sơ thẩm số 934/2019/DS-ST ngày 29/11/2019, ngày 12/12/2019 ông N N T kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm nêu trên. Căn cứ Điều 271, Điều 272 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, đơn kháng cáo của ông Thư hợp lệ và làm trong thời hạn luật định nên được xem xét.

Ông N N T kháng cáo yêu cầu hủy án sơ thẩm vì ông đã trả hết nợ cho vợ chồng bà T(S), hiện ông không còn nợ gì vợ chồng bà T (S).

Giữa nguyên đơn là bà N N T(S) và bị đơn là ông N N T đã nhiều lần thực hiện việc giao dịch dân sự vay và cho vay tài sản (tiền) với nhiều khoản vay khác nhau, trong đó có 02 khoản vay với số tiền: 200.000.000đ(Hai trăm triệu đồng) là vào ngày 12/10/2017 và vào ngày 27/4/2018, ông T cho rằng đã thanh toán hết số tiền trên cho phía nguyên đơn vào ngày 15/7/2018 nhưng không có chứng cứ chứng minh, phía nguyên đơn không thừa nhận việc ông T đã thanh toán hết khoản vay trên mà cho rằng vào ngày 01/8/2018 ông T có trả 200.000.000đ (Hai trăm triệu đồng) nhưng đây là số nợ gốc của ngày 12/10/2017, căn cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì khoản vay của ngày 27/4/2018 không có thể hiện việc ông T đã thanh toán hết số tiền trên cho vợ chồng bà T (S), nên việc bà N T T(S) khởi kiện đòi ông N N T trả lại số tiền trên là có cơ sở.

Án phí dân sự phúc thẩm: Ông T là người cao tuổi nên thuộc trường hợp được miễn án phí dân sự phúc thẩm.

Với những chứng cứ trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2016.

- Căn cứ vào diểm b Điều 38, Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2016.

- Điều 48 Nghị quyết 326/2016/UBTV-QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Không chấp yêu cầu kháng cáo của ông N N T .

1/ Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 934/2019/DS-ST ngày 29 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân quận T, Thành phố H.

2/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T T T(Soi) về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” đối với ông N N T.

Ông N N T có trách nhiệm thanh toán cho bà T T T(S) và ông H V H số tiền 200.000.000đ (Hai trăm triệu đồng). Trong trường hợp ông T chậm thực hiện nghĩa vụ giao tiền cho vợ chồng bà T T T (S), ông H V H thì ông T phải chịu tiền lãi suất chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự thì hàng tháng còn phải chịu tiền lãi đối với số tiền chưa thi hành theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

3/ Đình chỉ giải quyết yêu cầu của bà T T T đối với số tiền lãi suất 21.000.000đ (Hai mươi mốt triệu đồng).

Những phần quyết định khác của bản án không có kháng cáo, kháng nghị đã phát sinh hiệu lực pháp luật.

4/ Về án phí: Ông N N T thuộc trường hợp người cao tuổi nên được miễn án phí được miễn toàn bộ tiền án phí.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

128
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 558/2020/DS-PT ngày 19/06/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:558/2020/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 19/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về