Bản án 54/2020/HNGĐ-ST ngày 29/04/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 54/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/04/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 29 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 11/2020/TLST-HNGĐ, ngày 03 tháng 01 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2020/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 3 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 63/2020/QĐST-HNGĐ ngày 09/4/2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Dương Tấn P, sinh năm 1985

HKTT: A. tổ B, khu phố A, phường TD, thành phố BH, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Bà Nguyễn Phước Thành N, sinh năm 1987.

Nơi cư trú cuối cùng: A, Quốc lộ A, khu phố A, phường TD, thành phố BH, tỉnh Đồng Nai.

(Ông P, bà N vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, quá trình tiến hành tố tụng ông Dương Tấn P trình bày: Ông Dương Tấn P và bà Nguyễn Phước Thành N tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Trung Dũng, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai ngày 30/3/2006, giấy chứng nhận kết hôn số 102/2006. Cuộc sống chung của vợ chồng ông không hạnh phúc, nguyên nhân là do vợ chồng không hiểu tính nhau, về lối sống, quan điểm sống không phù hợp, thường xuyên cãi vã nhau. Từ năm 2015, bà N bỏ nhà đi đâu không ai biết, ông đã báo công an phường và tìm mọi cách để tìm kiếm nhưng không có kết quả hay thông tin gì từ bà N. Đến năm 2019 ông đã yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa tuyên bố bà N mất tích và đã Tòa án đã tuyên bố bà Nguyễn Phước Thành N mất tích theo quyết định giải quyết việc dân sự số 30/2019/QĐST-VDS ngày 08/8/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa. Đến nay, bà N vẫn biệt tích, ông và các con không biết bà N đang ở đâu, làm gì và thấy tình cảm vợ chồng đã không còn, mục đích hôn nhân cũng không đạt được nên ông xin Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà Nguyễn Phước Thành N.

- Về con chung: Vợ chồng ông có 02 con chung là Dương Anh K, sinh ngày 02/4/2005, Dương Anh K, sinh ngày 09/3/2010. Ly hôn ông P xin được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cả hai con và tạm thời ông P không yêu cầu bà N phải cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết

- Về Nợ chung: Ông cam kết vợ chồng tôi không có nợ chung.

- Về án phí: Ông xin tự nguyện chịu án phí hôn nhân gia đình theo quy định của pháp luật.

* Theo bản tự khai và biên bản lấy lời khai ngày 12/02/2020 cháu Dương Anh K và Dương Anh K con ông Dương Tấn P và bà Nguyễn Phước Thành N trình bày: Từ năm 2015 đến nay, ba là ông Dương Tấn P là người nuôi dưỡng và giáo dục hai cháu, mẹ là Nguyễn Phước Thành N đã bỏ đi từ 2015 đến nay không thấy về nên hai cháu xin được tiếp tục ở với ba Dương Tấn P.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành xác minh tại địa phương về mâu thuẫn vợ chồng của ông Dương Tấn P, bà Nguyễn Phước Thành N, kết quả xác minh thể hiện quá trình chung sống vợ chồng ông P và bà N không hạnh phúc và bà N đã bỏ đi từ năm 2015 đến nay không thấy về. Tòa án đã tiến hành niêm yết thông báo thụ lý vụ án cho bà N nhưng bà N không gửi cho Tòa án ý kiến của mình đối với yêu cầu của ông P và cũng không giao nộp tài liệu, chứng cứ. Tòa án đã nhiều lần niêm yết Thông báo, giấy triệu tập bà N đến Tòa án để lấy lời khai đối chất; tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bà N không đến Tòa án làm việc.

Ý kiến của Viện Kiểm sát: Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật về tố tụng, bảo đảm sự vô tư, khách quan trong việc giải quyết vụ án. Về nội dung tranh chấp: Cuộc sống hôn nhân của ông Dương Tấn P, bà Nguyễn Phước Thành N không có hạnh phúc, mâu thuẫn đã trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông P. Các con ông P, bà N gồm Dương Anh K, sinh ngày 02/4/2005, Dương Anh K, sinh ngày 09/3/2010 từ khi bà N bỏ đi ông P là người trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục, ý kiến hai cháu K và K cũng xin được ở với ba là anh P nên đề nghị Hội đồng xét xử giao hai cháu K, K cho ông P tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục. Ông P khai không có nợ chung, tài sản không có và bà N cũng không có ý kiến nên đề nghị Tòa án không giải quyết trong vụ án này.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Tòa án nhận định:

Về tố tụng: Bà Nguyễn Phước Thành N đã được Tòa án tuyên bố mất tích nên Tòa án không thể tống đạt trực tiếp các văn bản tố tụng cho bà N được. Để đảm bảo thủ tục tố tụng, Văn phòng Thừa Phát lại, Tòa án và Chính quyền địa phương đã lập biên bản ghi nhận việc không thể tống đạt trực tiếp cho bà N được và niêm yết: “Thông báo thụ lý vụ án”, “Giấy triệu tập”, “Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, công khai tiếp cận chứng cứ và hòa giải”, “Thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, công khai tiếp cận chứng cứ và hòa giải”, “Thông báo về việc thu thập được tài liệu chứng cứ” tại địa chỉ nơi bà N cư trú cuối cùng, tại trụ sở Ủy ban nhân dân phường Trung Dũng, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và trụ sở Tòa đúng thời hạn luật định nhưng bà N vẫn không đến Tòa án làm việc. Do bà N đã được thông báo nhiều lần nhưng vẫn không đến tham gia phiên họp nên Tòa án đã lập biên bản ghi nhận việc không thể tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, công khai tiếp cận chứng cứ và hòa giải được. Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa do vắng mặt bà N cũng đã được tiến hành niêm yết công khai theo đúng quy định của pháp luật. Như vậy, bà Nguyễn Phước Thành N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng bà N vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Nguyễn Phước Thành N theo quy định tại Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Ông Dương Tấn P có đơn xin xét xử vắng mặttheo quy định tại Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông P.

Về nội dung tranh chấp: Ông Dương Tấn P yêu cầu ly hôn với bà Nguyễn Phước Thành N và xin được trực tiếp nuôi cả hai con là Dương Anh K, sinh ngày 02/4/2005, Dương Anh K, sinh ngày 09/3/2010; Về tài sản chung và nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Các nội dung này đã được Tòa án ghi rõ trong các Thông báo mà bà N đã được niêm yết hợp lệ nhưng bà N không có ý kiến phản đối, không giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án nên Hội đồng xét xử căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án để giải quyết.

[1] Về quan hệ hôn nhân: Trên cơ sở lời khai, lời trình bày của ông Dương Tấn P, kết quả xác minh tại địa phương thì thấy cuộc sống chung của ông P và bà Nguyễn Phước Thành N không có hạnh phúc, không có sự yêu thương, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Trên thực tế, bà Nguyễn Phước Thành N đã bỏ đi khỏi nhà và địa phương từ năm 2015 đến nay, không quan tâm, chăm sóc chồng con. Tòa án đã nhiều lần niêm yết hợp lệ thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, công khai tiếp cận chứng cứ và hòa giải cho bà N để tiến hành hòa giải nhưng bà N không đến, cho thấy bà N không có thiện chí trở về đoàn tụ với ông P. Đồng thời, bà Nguyễn Phước Thành N đã mất tích theo quyết định giải quyết việc dân sự số 30/2019/QĐST-VDS ngày 08/8/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa theo quy định tại Khoản 2 Điều 68 Bộ luật dân sự năm 2015. Do vậy yêu cầu của ông P về việc xin ly hôn với bà Nguyễn Phước Thành N là có cơ sở chấp nhận.

[2] Về con chung: Ông Dương Tấn P và bà Nguyễn Phước Thành N có 02 con là Dương Anh K, sinh ngày 02/4/2005, Dương Anh K, sinh ngày 09/3/2010. Ly hôn ông P xin được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cả hai con và tạm thời ông P không yêu cầu bà N phải cấp dưỡng nuôi con chung. Chị N đã được Tòa án thông báo và triệu tập nhiều lần nhưng chị N vẫn không đến Tòa làm việc và cũng không có ý kiến về vấn đề nuôi con chung và cấp dưỡng nên Tòa án căn cứ chứng cứ kết quả xác minh tại địa phương để xem xét về điều kiện nuôi con của các bên. Xét về điều kiện nuôi con thì thấy từ năm 2015 đến nay cháu K và cháu K do ông P trực tiếp nuôi dưỡng, có nơi cư trú ổn định, bản tự khai của cháu K và biên bản lấy lời khai của cháu K thể hiện nguyện vọng cả hai cháu đều xin ở với ông P nên căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu của ông P giao 02 cháu Dương Anh K, sinh ngày 02/4/2005 và Dương Anh K, sinh ngày 09/3/2010 cho ông P trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Do ông P không yêu cầu nên tạm thời chị Nguyễn Phước Thành N không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[3] Về nợ chung và tài sản chung: Ông Dương Tấn P cam kết ông và bà Nguyễn Phước Thành N không có nợ chung, không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bà N đã được Tòa án thông báo về các ý kiến, yêu cầu này của ông P nhưng cũng không có ý kiến gì. Do vậy Tòa án không giải quyết về tài sản chung và nợ chung của ông P, bà N trong vụ án này.

[4] Về án phí ly hôn: Ông Dương Tấn P phải nộp tiền tạm ứng án phí dân sự về việc ly hôn theo quy định của pháp luật.

[5] Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, 228, Điều 266, Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Khoản 2 Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 vả Điều 119 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông Dương Tấn P. Ông Dương Tấn P được ly hôn với bà Nguyễn Phước Thành N.

2. Về con chung: Có 02 con là Dương Anh K, sinh ngày 02/4/2005, Dương Anh K, sinh ngày 09/3/2010. Giao cả hai con K, K cho ông Dương Tấn P được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục và tạm thời bà N không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Không ai được ngăn cản quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung của bà Nguyễn Phước Thành N. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết các đương sự được quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về tài sản chung, về nợ chung: Không xem xét giải quyết trong vụ án này.

4. Về án phí: Ông Dương Tấn P phải nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm ông P đã nộp theo biên lai thu số 0000779, ngày 04/10/2019 của Chi Cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Ông P đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

6. Ông Dương Tấn P, Bà Nguyễn Phước Thành N có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 54/2020/HNGĐ-ST ngày 29/04/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:54/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về