Bản án 53/2021/HNGĐ-ST ngày 15/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

 BẢN ÁN 53/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 15 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xét xử công khai vụ án dân sự thụ lý số: 212/2021/TLST - HNGĐ ngày 19 tháng 3 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 68/2021/QĐXX ngày 14 tháng 5 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Trần Văn C - Sinh năm 1994.

HKTT: đường Đ , phường H , thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

Nơi ở hiện nay: Thôn T, xã H, huyện M, tỉnh Thanh Hóa

Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Thùy L - Sinh năm 1995 Địa chỉ: đường Đ , phường H , thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

Tại phiên tòa nguyên đơn, bị đơn đều vắng mặt (nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án anh Trần Văn C trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị Nguyễn Thị Thùy L kết hôn với nhau năm 2015 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện M, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi kết hôn anh chị chung sống với gia đình chị L tại đường Đ , phường H , thành phố T, tỉnh Thanh Hóa, đến khi chị L sắp sinh con thì vợ chồng chuyển về nhà anh để sinh sống. Quá trình chung sống vợ chồng hoà thuận hạnh phúc được khoảng gần 1 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi nhau. Mâu thuẫn của vợ chồng cũng được hai bên gia đình khuyên bảo nhiều lần nhưng không có kết quả, mà ngày càng trầm trọng hơn. Kể từ tháng 12/2015 chị L đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ tại địa chỉ: đường Đ , phường H , thành phố Thanh Hóa để ở, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay, không ai còn quan tâm chăm sóc đến ai. Nay anh C xét thấy tình cảm vợ chồng thật sự không còn, anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị L.

Về con: Anh chị có một con chung Cháu Trần Bảo N – sinh ngày 27/10/2015. Ly hôn, anh đề nghị Tòa án giao cháu N cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, anh có trách nhiệm cấp dưỡng tiền nuôi con chung 2.000.000đ/tháng cho đến khi cháu N thành niên Về tài sản, công nợ: anh C không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 16 tháng 4 năm 2021 bị đơn chị Nguyễn Thị Thùy L trình bày:

Về hôn nhân: Về thời gian, điều kiện kết hôn, nguyên nhân mâu thuẫn, chị L thống nhất như nội dung anh C đã khai. Nay anh C đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị thì chị cũng đồng ý Về con chung: Anh chị có một con chung: Cháu Trần Bảo N – sinh ngày 27/10/2015. Ly hôn, chị đồng ý với ý kiến của anh C về việc đề nghị Tòa án giao cháu N cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, anh C có trách nhiệm cấp dưỡng tiền nuôi con chung 2.000.000đ/tháng cho đến khi cháu N thành niên.

* Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho chị Nguyễn Thị Thùy L theo quy định của pháp luật, nhưng chị L không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, tham gia phiên tòa.

Thu thập chứng cứ tại địa phương: Anh Trần Văn C và chị Nguyễn Thị Thùy L là vợ chồng có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật và chung sống với nhau tại địa phương. Quá trình vợ chồng chung sống hòa thuận đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, dẫn đến vợ chồng hay cãi chửi nhau. Anh C chị L đã sống ly thân, chị L vẫn ở tại đường Đ , phường H , thành phố T, còn anh C bỏ về nhà bố mẹ đẻ, vợ chồng không ai quan tâm đến ai.

Về con chung: Vợ chồng anh C chị L có một con chung là cháu Trần Bảo N – sinh ngày 27/10/2015. Về tài sản công nợ của anh C chị L địa phương không nắm được, đề nghị Tòa án căn cứ pháp luật giải quyết.

Tại phiên tòa vắng mặt chị L, anh C. Anh C có đơn xin xét xử vắng mặt và anh vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện không bổ sung thêm nội dung nào khác.

Đại diện VKS phát biểu ý kiến trong quá trình giải quyết vụ án thẩm phán, hội đồng xét xử, thư ký, nguyên đơn đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tại phiên toà nguyên đơn có đơn xin xử vắng mặt, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do nên đề nghị Tòa án căn cứ vào khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 BLTTDS để xét xử. Về yêu cầu khởi kiện: đề nghị HĐXX căn cứ vào Điều 56, 81, 82 và Điều 83 Luật hôn nhân gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh C.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Trần Văn C khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn, là quan hệ tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chị Nguyễn Thị Thùy L có địa chỉ tại thành phố Thanh Hóa, nên Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn chị Nguyễn Thị Thùy L đã được Tòa án tống đạt hợp lệ nhiều lần nH không đến Tòa án để tham gia phiên họp kiểm tra việc tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, không đến tham gia phiên tòa nên căn cứ vào khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 BLTTDS để xét xử.

[2] Về hôn nhân: Anh Trần Văn C, chị Nguyễn Thị Thùy L kết hôn với nhau có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện M, tỉnh Thanh Hóa là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu xin ly hôn của anh C thấy rằng: hôn nhân muốn tồn tại trước hết vợ chồng phải thương yêu nhau, tin tưởng nhau và có trách nhiệm với nhau cùng nhau xây dựng hạnh phúc gia đình. Qua xem xét lời khai của anh C, chị L, cung cấp của chính quyền địa phương nơi anh C, chị L sinh sống thể hiện : vợ chồng anh C chị L mâu thuẫn đã kéo dài, mặc dù được gia đình hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả, vợ chồng đã sống ly thân nhau từ tháng tháng 12/2015 đến nay không ai quan tâm đến ai. Quá trình Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án anh C, chị L đều xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị L đã được Tòa án triệu tập nhiều lần nH không đến Tòa án để hòa giải, không tham gia phiên tòa, mặc nhiên để anh C đơn phương ly hôn. Do đó căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân gia đình chấp nhận yêu cầu của anh C, xử cho anh được ly hôn chị Nguyễn Thị Thùy L.

[3] Về con chung: Anh chị có một con chung tên là Trần Bảo N – sinh ngày 27/10/2015. Hiện nay cháu N còn nhỏ, đang ở với chị L, chị L vẫn nuôi dạy cháu đảm bảo về mọi mặt. Do vậy, căn cứ Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình giao cháu N cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, anh C cấp dưỡng tiền nuôi con chung 2.000.000đ/tháng là phù hợp với quy định pháp luật và với cả nguyện vọng của anh C chị L.

[4] Về tài sản: Anh C không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Căn cứ Điều 147 BLTTDS; điểm a khoản 5, khoản 6 Điều 27, khoản 1.1 điều 1 phần II, mục A Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án, anh Trần Văn C phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và án phí cấp dưỡng theo định kỳ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm b khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 1 Điều 207, khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5, khoản 6 Điều 27, khoản 1. 1 Điều 1 phần II, mục A Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án Về hôn nhân: Xử cho anh Trần Văn C được ly hôn chị Nguyễn Thị Thùy L.

Về con chung: Công nhận cháu Trần Bảo N – sinh ngày 27/10/2015 là con chung của anh Trần Văn C và chị Nguyễn Thị Thùy L. Giao cháu N cho chị Nguyễn Thị Thùy L trực tiếp nuôi dưỡng, anh Trần Văn C cấp dưỡng tiền nuôi con chung 2.000.000đ/tháng, thời gian cấp dưỡng kể từ tháng 6/2021 cho đến khi cháu N thành niên Anh C có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

Án phí: anh C phải nộp 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm và 300.000đ án phí cấp dưỡng nuôi con theo định kỳ, nH được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ anh C đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0012272 ngày 16/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T. Anh C còn phải nộp 300.000đ án phí sơ thẩm.

Anh C, chị L có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 53/2021/HNGĐ-ST ngày 15/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:53/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về