Bản án 53/2017/HS-ST ngày 22/07/2017 về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ DẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 53/2017/HS-ST NGÀY 22/07/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 22 tháng 7 năm 2017, tại Trường trung học cơ sở P - thuộc ấp PA, xã P, huyện G, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 47/2017/HSST ngày 01 tháng 6 năm 2017 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn V, sinh năm 1990; tại tỉnh Tây Ninh; trú tại: ấp A5, xã B, huyện G, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: làm mướn; trình độ văn hóa: 9/12; con ông: Nguyễn Văn C và bà Nguyễn Thị L1; vợ: Trần Thị Tú A và có 01 người con; tiền sự: không có (đã được xóa), tiền án: ngày 05/12/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu ra Bản án số 119 xử phạt 04 năm tù về tội “Giao cấu với trẻ em” theo điểm a khoản 2 Điều 115 Bộ luật hình sự; bị tạm giam từ ngày 22/3/2017 đến nay; (có mặt).

2. Nguyễn Trúc L, sinh năm 1980; tại tỉnh Tây Ninh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: khu phố 5, phường L2, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú hiện nay: ấp A7, xã B, huyện G, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp; công nhân; trình độ văn hóa: biết viết chữ; con ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Kim L2 (chết); vợ, con: chưa có; tiền sự, tiền án: không có; bị tạm giam từ ngày 22/3/2017 đến nay; (có mặt).

Người bị hại:

1. Anh Huỳnh Minh T, sinh năm 1991

Địa chỉ: ấp TS, xã ĐT, huyện T, tỉnh Tây Ninh; (có đơn xin vắng mặt). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1990

Địa chỉ: ấp VĐ, xã NT, huyện GR, tỉnh Kiên Giang; (vắng mặt).

2. Chị Phạm Thị L4, sinh năm 1982

Địa chỉ: đường CN1, phường S, quận T, Thành phố Hồ Chí minh; (vắng mặt).

3. Anh Mai Chấn V, sinh năm 1981

Địa chỉ: đường CN1, phường S, quận T, Thành phố Hồ chí Minh; (vắng mặt).

4. Anh Lê Viết C, sinh năm 1978

Địa chỉ: ấp B, xã Tân A, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh; (vắng mặt).

5. Anh Nguyễn Hữu T, sinh năm 1987

Địa chỉ: ấp A1, xã B, huyện G, tỉnh Tây Ninh; (có măt).

6. Anh Bùi Công K, sinh năm 1982

Địa chỉ: ấp A3, xã H, Thành phố T, tỉnh Long An; (vắng măt).

7. Anh Võ Văn Q, sinh năm 1981

Địa chỉ: ấp A1, xã T, huyện B, tỉnh Long An; (vắng mặt).

8. Anh Trang Thanh T, sinh năm 1977

Địa chỉ: KP G, phường K, Thành phố T, tỉnh Long An; (vắng mặt).

NHẬN THẤY

Các bị cáo Nguyễn Văn V và Nguyễn Trúc L bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh truy tố về hành vi phạm tội như sau: Khoảng 1 giờ ngày 11/6/2016, sau khi ăn tối tại thị trấn G, huyện G, tỉnh Tây Ninh Nguyễn Văn V điều khiển xe môtô biển số 70F1-440.26 về nhà. Khi điều khiển xe qua cầu Bến Đò khoảng 100m - thuộc ấp PA, xã P, huyện G, V thấy xe môtô hiệu Yamaha Exciter biển số 70L-278.09 dựng bên lề đường, trên xe có sẳn chìa khóa và bên cạnh anh Huỳnh Minh T nằm ngủ. V dừng xe, đến kêu anh T dậy nhưng thấy anh T vẫn nằm ngủ do say rượu nên V nảy sinh ý định chiếm đoạt xe của anh T. V điều khiển xe của V đi giấu trong đám mía gần đó, đi bộ đến chỗ anh T. V lén lút lấy điện thoại di động hiệu Apple 5S và xe môtô biển số 70L1-278.09 của anh T, V điều khiển xe của anh T qua Campuchia để cầm cố.

Trên đường đi, V dừng xe mở yên xe kiểm tra thấy trong cốp xe có 01 cái bóp da, bên trong bóp có 01 giấy chứng minh nhân dân phô tô, 01 giấy phép lái xe, 01 giấy đăng ký xe biển số 70L1-278.09 mang tên Huỳnh Minh T, 02 thẻ ATM và 32.000 đồng. V nghĩ xe có giấy tờ nếu mang đến Thành phố Hồ Chí Minh cầm sẽ được nhiều tiền nên V gọi điện thoại nói cho Nguyễn Trúc L biết việc V trộm xe và nhờ L dẫn đến Thành phố Hồ Chí Minh tìm nơi cầm xe thì L đồng ý. V kêu L đến lấy xe của V giấu trong đám mía, L cùng với V điều khiển xe đến Thành phố Hồ Chí Minh tìm nơi cầm xe nhưng không được. L gọi điện thoại cho anh Nguyễn Văn H nói tham gia cá cược bóng đá bị thua nên nhờ anh H tìm nơi cầm xe thì anh H dẫn V và L đến dịch vụ cầm đồ Tân Phú của chị Phạm Thị L tại phường S, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh cầm xe môtô biển số 70L1-278.09 được 15.000.000 đồng. V cho L 5.000.000 đồng và cho anh H 500.000 đồng. Một tuần sau, V đến cửa hàng điện thoại di động tại huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh bán điện thoại di động của anh T được 300.000 đồng tiêu xài.

Tại kết luận định giá của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự: xe môtô hiệu Yamaha Exciter biển số 70L1-278.09 có giá trị 23.000.000 đồng; điện thoại di động hiệu Apple Iphone 5S có gia trị 3.500.000 đồng.

Vật chứng thu giữ: 01 xe môtô hiệu Yamaha Exciter màu đỏ đen trắng, biển số 70L1-278.09, số khung CE1S940AY050033, số máy 1S94050027 và 01 giấy đăng ký xe môtô mang tên Huỳnh Minh T, đã trả lại cho anh T xong.

Về bồi thường thiệt hại: anh T yêu cầu bồi thường 3.500.000 đồng.

Đối với H và L không biết xe môtô do V và L phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không xử lý.

Tại bản cáo trạng số: 55/QĐ/KSĐT ngày 30/5/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn V về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự và Nguyễn Trúc L về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 250 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn V từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù và áp dụng khoản 1 Điều 250; điểm h, p khoản 1 điều 46 Bộ luật hình sự xử phạt: Bị cáo Nguyễn Trúc L từ 09 (chín) tháng đến 01 (một) năm tù.

Về biện pháp tư pháp: Đề nghị áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự và Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia 110 màu hồng đen của bị cáo V.

Ghi nhận đã trả lại cho anh Huỳnh Minh T 01 xe môtô hiệu Yamaha Exciter màu đỏ đen trắng, biển số 70L1-278.09, số khung CE1S940AY050033, số máy 1S94050027 và 01 giấy đăng ký xe môtô mang tên Huỳnh Minh T xong.

Trách nhiệm dân sự: Đề nghị áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự và Điều 589 Bộ luật Dân sự.

Ghi nhận bị cáo V đồng ý bồi thường cho anh T 3.500.000 đồng.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo Nguyễn Văn V và Nguyễn Trúc L đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, và những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thấy rằng: Khoảng 1 giờ ngày 11/6/2016, tại ấp PA, xã P, huyện G, tỉnh Tây Ninh, Nguyễn Văn V đã thực hiện hành vi lấy trộm xe môtô hiệu Yamaha Exciter màu đỏ đen trắng, biển số 70L1-278.09 có giá trị 23.000.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Apple Iphone 5S có giá trị 3.500.000 đồng và 32.000 đồng của anh Huỳnh Minh T, sau đó bị cáo nói lại sự việc trộm xe cho bị cáo Nguyễn Trúc L nghe, cùng với bị cáo L đem xe đi tiêu thụ. Hành vi của các bị cáo Nguyễn Văn V có đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự và bị cáo Nguyễn Trúc L có đủ yếu tố cấu thành tội

“Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 250 Bộ Luật hình sự.

Vụ án mang tính chất ít nghiêm trọng, hành vi của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Nguyên nhân dẫn đến các bị cáo phạm tội là do tham lam, muốn có tiền tiêu xài, không chịu lao động lương thiện để nuôi sống bản thân, mà lại muốn hưởng thụ sung sướng trên công sức lao động của người khác, bất chấp pháp luật nên từ đó dẫn bị cáo đến con đường phạm tội.

Đối với bị cáo V có một tiền sự năm 2008 bị đưa vào cơ sở giáo dục về hành vi trộm cắp tài sản đã được xóa và một tiền án ngày 05/12/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh xử phạt 04 năm tù về tội “Giao cấu với trẻ em”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 19/12/2015. Chứng tỏ bị cáo xem thường pháp luật đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, nên cần xử phạt tù bị cáo mới đủ sức răng đe.

Đối với bị cáo Nguyễn Trúc L là người không có hứa hẹn trước, mà tiếp tay để tiêu thụ tài sản do bị cáo V phạm tội mà có, nên cũng cần xử phạt tù bị cáo tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tộ của bị cáo. Với mức hình phạt như nhận định trên cũng đủ để cải tạo giáo dục các bị cáo trở thành người công dân tốt, biết chấp hành pháp luật, nhằm mục đích giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo V có nhân thân xấu có một tiền sự đã được xóa và có một tiền án chưa được xóa là tình tiết tăng nặng theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Riêng bị cáo L chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.

Về biện pháp tư pháp:

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia 110 màu hồng đen của bị cáo V liên quan đến việc phạm tội. (Hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện Gò Dầu đang quản lý).

Đã trả lại cho anh Huỳnh Minh T 01 xe môtô hiệu Yamaha Exciter màu đỏ đen trắng, biển số 70L1-278.09, số khung CE1S940AY050033, số máy 1S94050027 và 01 giấy đăng ký xe môtô mang tên Huỳnh Minh T xong.

Trách nhiệm dân sự: Anh T yêu cầu bị cáo V phải bồi thường 3.500.000 đồng, trị giá 01 điện thoại di động hiệu Apple Iphone 5S theo kết quả định giá, không yêu cầu bị cáo V trả lại số tiền 32.000 đồng.

Tại phiên tòa bị cáo V đồng ý bồi thường cho anh Tiến 3.500.000 đồng, nên ghi nhận.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và bị cáo V phải chịu án dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1/ Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn V phạm tội: “Trộm cắp tài sản” và bị cáo Nguyễn Trúc L phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn V 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22/3/2017.

Áp dụng khoản 1 Điều 250; điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Trúc L 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22/3/2017.

Về biện pháp tư pháp:

Áp dụng Điều 41 Bộ Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia 110 màu hồng đen. (Hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện Gò Dầu đang quản lý).

Ghi nhận đã trả lại cho anh Huỳnh Minh T 01 xe môtô hiệu Yamaha Exciter màu đỏ đen trắng, biển số 70L1-278.09, số khung CE1S940AY050033, số máy 1S94050027và 01 giấy đăng ký xe môtô mang tên Huỳnh Minh T xong.

Áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự và Điều 589 Bộ luật dân sự.

Ghi nhận bị cáo V đồng ý bồi thường cho anh Tsố tiền 3.500.000 đồng.

2. Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và bị cáo V phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền tự thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, báo cho các bị cáo biết có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh. Riêng người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

323
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 53/2017/HS-ST ngày 22/07/2017 về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:53/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Dầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về