Bản án 52/2020/HS-ST ngày 06/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 52/2020/HS-ST NGÀY 06/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 5 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 60/2020/TLST-HS ngày 27 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 53/2020/QĐXXST-HS ngày 21/4/2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Văn T1; Tên gọi khác: không; Sinh ngày: 06/10/19xx, tại huyện Đ, tỉnh N; Nơi ĐKHKTT: Thôn T1, xã X, huyện Đ, tỉnh N; Nghề nghiệp: Công nhân Công ty than Thống Nhất; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Phạm Văn N và bà: Nguyễn Thị H; Vợ: Trương Thị T2, có 03 con: lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt quả tang ngày 23/12/2019, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh N – Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Trương Thị T2, sinh năm 19xx, trú tại: Thôn T1, xã X, huyện Đ, tỉnh N – Vắng mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng: Nguyễn Văn V – Vắng mặt tại phiên tòa.

* Người chứng kiến: Anh Trần Xuân S, anh Đỗ Văn B – Đều vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 10 giờ 30 phút ngày 23/12/2019, tại khu vực tổ x, khu S, phường S1, thành phố P, Công an thành phố P bắt quả tang Phạm Văn T1 có hành vi tàng trữ trái phép 02 túi nilon bên trong đều chứa chất tinh thể màu trắng và còn thu giữ của Thoa: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung gắn sim số 0375989688, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia gắn sim số 0333152411; 01 ví giả da màu đen bên trong có số tiền 683.000 đồng, 01 thẻ căn cước công dân, 01 giấy phép lái xe ô tô, 01 giấy phép lái xe mô tô đều mang tên Phạm Văn T1 và 01 xe máy Yamaha Jupiter biển số 1xK5-64xx.

Tại bản kết luận giám định số 1063/GĐMT ngày 26/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N kết luận: Chất tinh thể màu trắng trong 02 túi nilon thu giữ của Phạm Văn T1 (ký hiệu M1, M2) là ma túy, loại Methamphetamin, tổng khối lượng 0,232 gam.

Tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa bị cáo Phạm Văn T1 khai nhận về hành vi phạm tội cụ thể: Bị cáo sử dụng ma túy từ tháng 01/2019, loại ma túy bị cáo sử dụng là ma túy đá, khoảng 22 giờ 00 phút ngày 22/12/2019 bị cáo đã đi xe máy đến khu vực ngã ba Cọc 6 thuộc phường Cẩm Phú mua được 02 túi ma túy đá của người đàn ông mới quen với giá 400.000 đồng, bị cáo mang ma túy về nhà trọ nhưng do không có bộ đồ để sử dụng nên không sử dụng được ngay. Đến khoảng 10 giờ ngày 23/12/2019 bị cáo cầm 02 túi ma túy đi xe máy Yamaha Jupiter biển số 1xK5-64xx đến khu vực sau shop quần áo Hà Phong phường S1 để rủ H1 (là bạn mới quen) cùng sử dụng nhưng chưa gặp được H1 thì bị công an phát hiện bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng gồm: 02 túi nilon bên trong chứa ma túy đá, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia; 01 ví giả da màu đen bên trong có số tiền 683.000 đồng, 01 thẻ căn cước công dân, 01 giấy phép lái xe ô tô, 01 giấy phép lái xe mô tô đều mang tên bị cáo, ngoài hai túi ma túy ra thì số vật chứng còn lại đều là tài sản riêng không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo; 01 xe máy Yamaha Jupiter biển số 1xK5-64xx là của vợ bị cáo mua lại của anh Nguyễn Văn V nhưng chưa làm thủ tục chuyển nhượng theo quy định, vợ bị cáo đã được nhận lại chiếc xe này. Viện kiểm sát nhân dân thành phố P truy tố đối với bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, không bị oan. Bị cáo thấy ân hận về hành vi phạm tội của mình nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là chị Trương Thị T2, vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai tại cơ quan điều tra thể hiện: Chị là vợ của bị cáo, ngày 22/12/2019 bị cáo lấy xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter biển số 1xK5-64xx để đi nhưng không nói với chị, chị không biết bị cáo T1 sử dụng xe vào việc mang ma túy đi tìm chỗ sử dụng, chị đã được cơ quan cảnh sát điều tra trả lại chiếc xe nên không có yêu cầu gì khác.

Người làm chứng là anh Nguyễn Văn V, vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai tại hồ sơ vụ án thể hiện: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter biển số 1xK5-64xx anh mua từ tháng 8/2004 nhưng do có nhu cầu mua xe mới nên anh đã bán đi từ năm 2011 với giá 11 triệu đồng, hiện nay xe không còn thuộc quyền sở hữu của anh nữa.

Anh Trần Xuân S và anh Đỗ Văn B – là người chứng kiến trong vụ án vắng mặt tại phiên tòa có lời khai tại cơ quan điều tra thể hiện: Các anh chứng kiến công an kiểm tra Phạm Văn T1, thu giữ 02 túi nilon bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, Thoa khai nhận đó là ma túy đá ngoài ra công an còn thu giữ của T1 02 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung và Nokia, 01 ví giả da màu đen bên trong có số tiền 683.000 đồng, 01 thẻ căn cước công dân, 01 giấy phép lái xe ô tô, 01 giấy phép lái xe mô tô đều mang tên Phạm Văn T1 và 01 xe máy Yamaha Jupiter biển số 14K5-6447. Công an đã tiến hành lập biên bản, niêm phong số ma túy đá và các vật chứng thu giữ của Thoa theo đúng quy định.

Bản cáo trạng số 63/CT-VKSCP ngày 26/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P truy tố bị cáo Phạm Văn T1 về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Xử phạt: Phạm Văn T1 từ 15 (mười lăm) tháng đến 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 23/12/2019 về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định. Trả lại cho bị cáo Phạm Văn T1 số tiền 683.000 đồng không liên quan đến việc phạm tội.

Tại phần tranh luận, bị cáo không tranh luận gì thêm, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt đến mức thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cẩm Phả, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được qui định trong Bộ luật Tố tụng hình sự; Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn T1 không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên toà Phạm Văn T1 khai nhận về hành vi phạm tội đúng với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với nội dung bản cáo trạng và các tài liệu như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 11 giờ 00 phút ngày 23/12/2019; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; cũng như Bản kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N; Phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, những người chứng kiến và các tài liệu điều tra khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Phạm Văn T1 đã có hành vi tàng trữ 0,232 gam ma túy loại Methamphetamine vào ngày 23/12/2019 nhằm mục đích để sử dụng thì bị công an phát hiện bắt giữ nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố P truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, do vậy cần chấp nhận lời luận tội của Kiểm sát viên đối với bị cáo.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội. Việc tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma tuý không chỉ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, trí lực của con người, mà còn làm phát sinh nhiều tội phạm khác và là hiểm hoạ đối với mọi gia đình và xã hội. Chính vì vậy hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử phạt nghiêm mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử có xem xét bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối hận về hành vi phạm tội đã gây ra, bị cáo là lao động chính trong gia đình, vợ bị cáo mới sinh hai con nhỏ vào năm 2019 nên cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo nghiện ma túy, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 phong bì còn nguyên dấu niêm phong số: 1063/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N bên trong đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định đây là vật nhà nước cấm lưu hành nên tuyên tịch thu tiêu hủy. Cơ quan công an thu giữ của bị cáo: 02 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung và Nokia, thu giữ 01 ví giả da bên trong có 01 thẻ căn cước công dân, 01 giấy phép lái xe ô tô, 01 giấy phép lái xe mô tô, 01 thẻ căn cước đều mang tên bị cáo, bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã trả lại cho chị Trương Thị T2 (theo giấy ủy quyền của bị cáo); Công an còn thu giữ của bị cáo 01 xe máy Yamaha Jupiter biển số 1xK5-64xx là tài sản của chị Trương Thị T2 (vợ bị cáo), chị Tươi không biết cáo dùng làm phương tiện đi tìm chỗ sử dụng ma túy, cơ quan công an đã trả cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nên không xem xét giải quyết. Ngoài ra công an còn thu giữ số tiền 683.000 đồng không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

[7] Đối với người bán ma túy cho bị cáo, do không biết lý lịch địa chỉ nên không có cơ sở điều tra làm rõ.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn T1 phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Xử phạt: Phạm Văn T1 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 23/12/2019;

Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tch thu tiêu hủy: 01 phong bì số: 1063/GĐMT còn nguyên dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh N bên trong chứa mẫu vật hoàn trả sau giám định.

Trả lại cho bị cáo Phạm Văn T1: 683.000đ (Sáu trăm tám mươi ba nghìn đồng). Tình trạng vật chứng, tài sản thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 111/BB-THA ngày 20/4/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P, tỉnh N.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Buộc bị cáo Phạm Văn T1 phải nộp: 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ vào các Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2020/HS-ST ngày 06/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:52/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về