Bản án 51/2019/HNGĐ-ST ngày 02/08/2019 về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 51/2019/HNGĐ-ST NGÀY 02/08/2019 VỀ TRANH CHẤP THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU KHI LY HÔN

Ngày 02 tháng 8 năm 2019 tại Hội trường xét xử, Toà án nhân dân thành phố Hạ Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 307/2019 /TLST-HNGĐ ngày 20/5/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 88/2019/QĐXX-ST ngày 16/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thanh X - sinh năm 1983 Nơi cư trú: Tổ 52B, khu 4B, phường C, TP.Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, có mặt tại phiên toà.

2. Bị đơn: A Lê Mai A - sinh năm 1982 ĐKNKTT: Tổ 11, khu 1, phường B, TP. Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1-Tại đơn khởi kiện đề ngày 02/5/2019, cùng lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, N đơn chị Phạm Thanh X trình bày:

Tại Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thoả thuận của các đương sự số 494/2017/QĐST-HNGĐ ngày 23/10/2017 của Toà án nhân dân thành phố Hạ Long đã quyết định giao con chung Lê X N, sinh ngày 12/3/2011 cho anh Lê Mai A trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục đến khi con chung đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi), chị Phạm Thanh X trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con chung Lê X B đến tuổi thành niên (Đủ 18 tuổi), không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cho ai và có quyền qua lại thăm nom con chung không ai được cản trở.

Nay chị đề nghị Toà án chuyển quyền nuôi con chung Lê X N từ A Lê Mai A sang cho chị với lý do: Muốn hai con được ở bên nhau. Mặt khác cháu N có biểu hiện không tốt về mặt phát triển tâm lý, tinh thần như hay nói bậy, dễ nổi cáu, nói hỗn với người lớn, dạy e làm những điều xấu, có tư tưởng và những suy nghĩ tiêu cực. Ngoài ra cháu có tâm lý rất sợ bố cụ thể trước mặt bố thì biểu hiện ngoan ngoãn, nhưng không dám nói chuyện nhiều với bố mà khi gặp mẹ cháu mới dám nói ra những suy nghĩ của cháu. Bên cạnh đó anh Lê Mai A chưa sâu sát trong việc chỉ bảo nuôi dạy cháu. Thời gian đầu sau khi ly hôn anh Mai A không cho chị thăm nom con, thời gian sau đó chị mới được thăm nom cháu. Từ tháng 5/2019 khi chị nộp đơn xin chuyển quyền nuôi con thì anh Mai A lấy lý do con học hành không cho chị đón con và thăm con. Nếu Tòa án giải quyết chuyển cho chị quyền nuôi cháu Lê X N thì chị yêu cầu anh Mai A cấp dưỡng nuôi cháu Lê X N 3.000.000 đồng/tháng, thời gian cấp dưỡng kể từ khi có bản án của Tòa án cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Hiện chị có nhà riêng và có thu nhập ổn định nên chị đủ điều kiện nuôi hai con chung.

2- Bị đơn anh Lê Mai A trình bày: Anh được Toà án giao con chung là Lê X N, sinh ngày 12/3/2011 nuôi dưỡng từ tháng 10/2017 đến khi cháu đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi) bằng Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thoả thuận của các đương sự đã có hiệu lực. Nay chị Phạm Thanh X đề nghị thay đổi người trực tiếp nuôi con sang cho chị X, anh không đồng ý vì: Hai vợ chồng anh đã đồng ý thuận tình giao con chung Lê X N cho anh trực tiếp nuôi dưỡng. Từ khi có quyết định của Toà án đến nay, cuộc sống và học tập của cháu N rất tốt, đảm bảo sự phát triển toàn diện cả về thể chất và tinh thần. Cháu vẫn phát triển bình thường. Vì vậy cháu luôn là một học sinh có lực học giỏi và ngoan ngoãn, vâng lời bố, ông bà. Thời gian gần đây do cháu N nghỉ hè nên anh cho cháu học các môn năng khiếu và đi du lịch nên không có thời gian chứ anh không bao giờ ngăn cản việc chị X thăm nom và chăm sóc con.

3-Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn vẫn giữ nguyên quan điểm đề nghị Tòa án chuyển quyền nuôi con chung. Bị đơn không đồng ý yêu cầu của nguyên đơn.

4-Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long có quan điểm:

-Về tố tụng:

Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định Điều 51,70,71,72 và Điều 203 của Bộ luật tố tụng dân sự.

-Về nội dung khởi kiện: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc chuyển quyền nuôi con chung Lê X N từ anh Lê Mai A sang cho chị Phạm Thanh X.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa; ý kiến của đương sự, Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về tố tụng: Quan hệ tranh chấp giữa chị Phạm Thanh X và anh Lê Mai A là "Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn" thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh theo quy định tại Điểm a khoản 1 Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: Tại Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thoả thuận của các đương sự số 494/2017/QĐST-HNGĐ ngày 23/10/2017 của Toà án nhân dân thành phố Hạ Long đã quyết định giao con chung Lê X N, sinh ngày 12/3/2011 cho anh Lê Mai A trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục đến khi con chung đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi), chị Phạm Thanh X trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con chung Lê X B đến tuổi thành niên (Đủ 18 tuổi), không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cho ai và có quyền qua lại thăm nom con chung không ai được cản trở.

HĐXX xét thấy cả chị X và anh Mai A đều có đủ điều kiện về vật chất (chỗ ở, nghề nghiệp và có thu nhập ổn định) và đủ điều kiện về tinh thần để trực tiếp nuôi dạy con chung Lê X N đến khi cháu đủ 18 tuổi Tuy nhiên căn cứ lời khai của anh Lê Mai A thì: “ Từ khi có Quyết định của Tòa án cho đến nay anh Mai A chăm sóc và nuôi dạy con rất tốt, cháu được phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần như nghỉ hè cháu N được học các lớp năng khiếu, đi du lịch. Kết quả cháu N luôn đạt danh hiệu học sinh giỏi, ngoan ngoãn, vâng lời bố mẹ và ông bà”. Phù hợp với xác nhận của cô giáo Nguyễn Thị G – chủ nhiệm lớp 2A4 Tường tiểu học H, TP Hạ Long: “Cháu Lê X N là một học sinh học tốt, có sự tiến bộ trong học tập, tiếp thu nhanh và chăm chỉ trên lớp và về nhà”, bản thân chị X cũng thừa nhận nội dung này. Trong quá trình giải quyết vụ án, xem xét đến nguyện vọng của con trên 7 tuổi, Tòa án đã lấy lời khai của cháu Lê X N có sự xác nhận của chị Phạm Thanh X và anh Lê Mai A thì cháu không có quan điểm về việc ở với bố hay với mẹ đối với yêu cầu chuyển quyền nuôi con của chị X. Nhưng, cháu khai: “Hiện nay cháu đang ở với bố cháu và ông bà nội, cháu luôn đạt danh hiệu học sinh giỏi, hàng ngày bố cháu là người đưa cháu đi học và bố chăm sóc cháu rất tốt”. Do đó chị Phạm Thanh X cho rằng: “Cháu N có biểu hiện không tốt về mặt phát triển tâm lý, tinh thần và anh Lê Mai A chưa sâu sát trong việc chỉ bảo nuôi dạy con” là không có cơ sở. Bởi lẽ mọi biểu hiện của cháu đều thể hiện cháu đang phát triển bình thường và là một học sinh ngoan biết vâng lời bố mẹ, cô giáo. Như vậy anh Mai A đã và đang làm tròn trách nhiệm của một người cha đối với con cái.

Mặt khác chị X trình bày: “Thời gian gần đây anh Mai A ngăn cản việc chị thăm nom con”. Nhưng theo như lời trình bày của anh Mai A việc chị X đến thăm nom con trùng với thời gian cháu N đi du lịch và học các môn năng khiếu, anh không bao giờ ngăn cản chị X đến thăm con. Bản thân chị X cũng không cung cấp được chứng cứ chứng minh cho rằng anh Mai A đã vi phạm nghĩa vụ, quyền của cha mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau ly hôn.

Từ sự phân tích trên, đồng thời đảm bảo cho cháu Lê X N có được cuộc sổng cũng như học tập ổn định, Hội đồng xét xử thấy rằng không có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thanh X về việc chuyển quyền nuôi con chung Lê X N từ anh Lê Mai A sang cho chị Phạm Thanh X.

[3] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án theo quy định Điều 271 và 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

[4]Về án phí: Do Yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thanh X không được chấp nhận nên chị X phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khon 3 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 144; khoản 1 Điều 147; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy đinh về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thanh X về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn đối với con chung Lê X N (Sinh ngày 12/3/2011) từ anh Lê Mai A sang cho chị Phạm Thanh X. Việc nuôi con vẫn thực hiện theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thoả thuận của các đương sự số 494/2017/QĐST-HNGĐ ngày 23/10/2017 của Toà án nhân dân thành phố Hạ Long.

2-Về án phí: Chị Phạm Thanh X phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng là tiền chị X đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền số 0001021 ngày 17/5/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hạ Long.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn và bị đơn. Báo cho nguyên đơn và bị đơn biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

238
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 51/2019/HNGĐ-ST ngày 02/08/2019 về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

Số hiệu:51/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về