Bản án 51/2017/HNGĐ-ST ngày 31/08/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con và tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 51/2017/HNGĐ-ST NGÀY 31/08/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON VÀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong ngày 31 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 142/2017/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 6 năm 2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con và tranh chấp hợp đồng vay tài sản, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 157/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 8 năm 2017, giữa:

- Nguyên đơn: Ông Huỳnh Văn T; Địa chỉ: ấp A, xã T, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. (Có mặt)

- Bị đơn: Bà Trần Thị Xuân H; cư trú: đường X, phường F, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. (Có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Trần Thị S, cư trú: đường N, khóm E, phường O, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện lập ngày 09/6/2017 cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn ông Huỳnh Văn T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông T và bà H đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện M nay là huyện C, tỉnh Sóc Trăng ngày 25/01/2007. Hôn nhân của ông bà hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn ông, bà chung sống hạnh phúc đến khoảng tháng6/2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, ông T không có quyền quyết định mọi việc trong gia đình, tất cả đều do bà H quyết định. Do đó, vợ chồng thường xuyên cải nhau. Từ khi  xảy ra mâu thuẫn cho đến nay, ông T và bà H không có nhờ chính quyền địa phương giải quyết. Vợ chồng ông bà đã sống ly thân từ tháng 6/2016 cho đến nay.

Nay ông T nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông T xin ly hôn với bà H.

Về con chung: Trong thời gian chung sống, ông bà có 01 người con chung tên Huỳnh Diễm Hoàng C, sinh ngày 26/3/2008. Sau khi ly hôn, ông T đồng ý giao cháu Huỳnh Diễm Hoàng C cho bà Trần Thị Xuân H trực tiếp nuôi dưỡng đến khi cháu C đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi con: Ông Huỳnh Văn T cấp dưỡng nuôi cháu Huỳnh Diễm Hoàng C mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi cháu C đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung: Ông T và bà H tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với số tiền nợ theo yêu cầu của bà Trần Thị S là 345.000.000 đồng do bà H tự mượn, không có trao đổi và không được sự đồng ý của ông T nên ông T không thừa nhận đây là nợ chung của vợ chồng ông bà và không đồng ý cùng có trách nhiệm trả số tiền nợ trên cho bà S cùng với bà H.

Theo ông T sau khi kết hôn, bà H và ông T thuê nhà ở đường X, phường F, thành phố S từ năm 2008 đến tháng 8 năm 2015 để kinh doanh Shop quần áo. Nguồn tiền để mở Shop là do ông bà tiết kiệm và mượn của em ruột ông T tên Huỳnh Thị N (hiện bà N đang sinh sống ở Đài Loan) số tiền 45.000.000 đồng. Đến đầu năm 2010, vợ chồng ông đã trả cho bà N số tiền 45.000.000đ, bà H là người trực tiếp đứng ra trả tiền cho bà N, ông T cũng không biết nguồn gốc số tiền bà H đứng ra trả cho bà N do đâu mà có.

Bị đơn bà Trần Thị Xuân H trình bày:

Bà H thống nhất với lời trình bày của ông T về thời gian ông bà chung sống và đăng ký kết hôn. Hôn nhân của ông bà hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn vợ chồng ông bà chung sống rất hạnh phúc, đến tháng 02/2016, giữa ông bà xảy ra cự cải. Nguyên nhân là do, em bà con của ông T tên Đ đến nơi kinh doanh của bà H (đường P, khóm B, phường O, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng) buôn bán trên vỉa hè. Khi đó, bà H có nhắc nhở Đ sử dụng tiết kiệm nước, ông T không đồng ý nên thường xuyên la chửi bà H, đập phá đồ đạc trong nhà. Từ khi xảy ra mâu thuẫn cho đến nay, ông T và bà H không có nhờ chính quyền địa phương giải quyết. Từ tháng 02/2016, ông T bỏ ra ngoài sống cho đến nay. Trong thời gian dọn ra ngoài sống, ông T có mối quan hệ như vợ chồng với người phụ nữ khác.

Nay bà H cho rằng tình cảm vợ chồng không còn, nên bà đồng ý ly hôn theo yêu cầu của ông T.

Về con chung: Trong thời gian chung sống, ông bà có 01 người con chung tên Huỳnh Diễm Hoàng C, sinh ngày 26/3/2008. Sau khi ly hôn bà H có nguyện vọng được nuôi dưỡng cháu Huỳnh Diễm Hoàng C cho đến khi cháu C đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà H yêu cầu ông T hàng tháng đóng góp cho bà H số tiền 2.000.000 đồng để cấp dưỡng nuôi cháu Huỳnh Diễm Hoàng C cho đến khi cháu Hoàng C đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung: Ông bà tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Trong thời gian từ năm 2008 đến năm 2014, bà H có mượn của chị ruột bà H là bà Trần Thị S nhiều lần với số tiền 345.000.000 đồng, việc mượn tiền do bà H trực tiếp đi mượn, viết biên nhận và nhận tiền, cụ thể như sau:

Ngày 30/7/2008 mượn số tiền 100.000.000 đồng. Ngày 20/02/2010 mượn số tiền 45.000.000 đồng. Ngày 15/4/2011 mượn số tiền 20.000.000 đồng. Ngày 06/3/2012 mượn số tiền 100.000.000 đồng. Ngày 08/9/2014 mượn số tiền 80.000.000 đồng.

Tất cả các lần mượn tiền đều không có mặt của ông T, bà H không có trao đổi, bàn bạc với ông T. Tuy nhiên, toàn bộ số tiền bà H mượn để phục vụ việc kinh doanh quần áo, trả nợ cho em của ông T là bà Huỳnh Thị N số tiền 45.000.000 đồng vào đầu năm 2010 và chi phí sinh hoạt trong gia đình.

Theo bà H, khoản nợ trên là nợ chung của vợ chồng, do đó bà H đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà S, yêu cầu chia đôi với ông T mỗi người có trách nhiệm trả cho bà Trần Thị S số tiền 172.500.000 đồng.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị S trình bày:

Trong khoảng thời gian từ năm 2008 đến năm 2014, vợ chồng ông T và bà H có vay của bà S số tiền 345.000.000 đồng, cụ thể như sau: Ngày 30/7/2008 mượn số tiền 100.000.000 đồng. Ngày 20/02/2010 mượn số tiền 45.000.000 đồng. Ngày 15/4/2011 mượn số tiền 20.000.000 đồng. Ngày 06/3/2012 mượn số tiền 100.000.000 đồng. Ngày 08/9/2014 mượn số tiền 80.000.000 đồng.

Việc mượn tiền có làm biên nhận, do bà H viết. Tất cả các lần mượn tiền đều không có mặt của ông T. Còn việc bà H, ông T có bàn bạc, trao đổi trước hay không thì bà S không biết. Do bà S thương em gái mình, lo làm ăn mà không có vốn nên bà S cho mượn. Số tiền này bà H mượn để trang trải gia đình và mua bán quần áo. Trước khi bà S làm đơn khởi kiện vợ chồng bà H và ông T thì bà S không có nói cho ông T biết việc bà H có mượn của bà S số tiền 345.000.000 đồng.

Bà S không đồng ý với lời trình bày của ông T. Theo bà S, khoản nợ này là nợ chung của vợ chồng bà H và ông T nên bà S yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc ông Huỳnh Văn T và bà Trần Thị Xuân H cùng có trách nhiệm trả cho bà S số tiền 345.000.000 đồng. Cụ thể ông T và bà H mỗi người có trách nhiệm trả cho bà S số tiền 172.500.000 đồng. Không yêu cầu trả lãi.

Ý kiến của kiểm sát viên:

Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã tiến hành các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự như: Xác định đúng thẩm quyền thụ lý vụ án, quan hệ pháp luật tranh chấp, xác định đúng tư cách tham gia tố tụng của các đương sự, việc thu thập chứng cứ đúng theo quy định. Về thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu, việc cấp tống đạt đảm bảo đúng theo quy định. Tại phiên Tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử cho ông Huỳnh Văn T được ly hôn bà Trần Thị Xuân H, về con chung giao cháu Huỳnh Diễm Hoàng C, sinh ngày 26/3/2008 cho bà Trần Thị Xuân H trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu Hoàng C đủ 18 tuổi, ông Huỳnh Văn T đóng góp cho bà Trần Thị Xuân H số tiền 1.000.000 đồng để cấp dưỡng nuôi cháu Huỳnh Diễm Hoàng C. Về tài sản chung ông T và bà H trình bày tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét. Về nợ đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị S. Buộc bà Trần Thị Xuân H có trách nhiệm trả cho bà Trần Thị S số tiền 322.500.000 đồng. Buộc ông Huỳnh Văn T có trách nhiệm trả cho bà Trần Thị S số tiền 22.500.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghe ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên Tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về quan hệ hôn nhân: Ông T và bà H xác lập quan hệ vợ chồng trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật nên hôn nhân của ông bà là hợp pháp. Trong quá trình chung sống do vợ chồng ông bà không biết xây dựng hạnh phúc cho riêng mình mà để xảy ra bất đồng, mâu thuẫn. Mặc dù Tòa án đã tiến hành hòa giải cho vợ chồng trở về đoàn tụ nhiều lần nhưng ông T và bà H vẫn cương quyết xin ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy, thực trạng mâu thuẫn giữa ông T và bà H đã đến mức trầm trọng, vợ chồng ông bà đã sống ly thân từ tháng 6/2016 cho đến nay không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, tại phiên tòa ông T và bà H thống nhất thuận tình ly hôn nên căn cứ Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử ghi nhận sự thuận tình ly hôn của ông T và bà H.

Về con chung: Ông T và bà H khai vợ chồng có 01 người con chung tên Huỳnh Diễm Hoàng C, sinh ngày 26/3/2008. Sau khi ly hôn ông T và bà H thống nhất giao cháu Hoàng C cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu Hoàng C đủ 18 tuổi. Hội đồng xét xử xét thấy từ khi vợ chồng ông bà sống ly thân cho đến nay, cháu Hoàng C sống cùng với bà H, cuộc sống của cháu đang ổn định, mặt khác cháu Hoàng C cũng có nguyện vọng được sống với bà H, vì vậy căn cứ vào Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của ông T và bà H, giao cháu Hoàng C cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu Hoàng C đủ 18 tuổi.

Ông Huỳnh Văn T có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc cháu Huỳnh Diễm Hoàng C mà không ai được cản trợ.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà H yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi cháu Hoàng C mỗi tháng là 2.000.000 đồng. Tại Tòa ông T chỉ đồng ý cấp dưỡng mỗi tháng 1.000.000 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy việc cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của cha, m không trực tiếp nuôi con. Tại Tòa ông T và bà H thỏa thuận giao cháu C cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng do đó việc bà H yêu cầu ông T phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con là có cơ sở. Tuy nhiên, bà H không chứng minh được thu nhập thực tế hiện nay của ông T là bao nhiêu, trong khi ông T cho rằng thu nhập hiện nay của ông mỗi tháng 3.000.000 đồng, do đó việc bà H yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi cháu C mỗi tháng là 2.000.000 đồng là không có cơ sở nên không được hội đồng xét xử chấp nhận. Việc ông T yêu cầu, hàng tháng ông sẽ cấp dưỡng nuôi cháu Châu số tiền 1.000.000 đồng là phù hợp với mức sống hiện nay tại địa phương, đáp ứng được chi phí tối thiểu cho sinh hoạt, học tập của con nên có cơ sở được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về tài sản chung: Ông T và bà H trình bày tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

Về nợ: Xét yêu cầu của bà Trần Thị S về việc yêu cầu ông T và bà H mỗi người có trách nhiệm trả cho bà S số tiền 172.500.000 đồng thì thấy, theo lời trình bày của bà S và bà H trong khoảng thời gian từ năm 2008 đến năm 2014, vợ chồng ông T và bà H có vay của bà S số tiền 345.000.000 đồng. Việc mượn tiền có làm biên nhận, do bà H viết và ký tên, bà H tự mượn, không có trao đổi và không được sự đồng ý của ông T. Sau khi mượn bà H cũng không thông báo cho ông T biết. Như vậy, có cơ sở xác định, trên thực tế bà H có vay của bà S số tiền 345.000.000 đồng. Sau khi vay đến nay bà H chưa trả cho bà S khoản tiền nào.

Theo bà H trình bày mặc dù số tiền này bà mượn một mình nhưng mục đích để phục vụ việc kinh doanh quần áo, trả nợ cho em của ông T là bà Huỳnh Thị N số tiền 45.000.000đ vào đầu năm 2010 và chi phí sinh hoạt gia đình nhưng bà không đưa ra được chứng cứ chứng minh, trong khi ông T chỉ T nhận vào năm 2010, bà H có trả cho em ruột của ông T là bà N số tiền 45.000.000 đồng. Do đó, có cơ sở xác định trong số tiền 345.000.000 đồng thì có 45.000.000 đồng (số tiền bà H trả cho bà Ngon) bà H sử dụng vào mục đích chung của vợ chồng nên số tiền 45.000.000 đồng này là nợ chung của vợ chồng ông T và bà H. Vì vậy ông T và bà H mỗi người phải có trách nhiệm trả cho bà S số tiền 22.500.000 đồng.

Đối với số tiền 300.000.000 đồng còn lại do bà H không chứng minh được là nợ chung của bà và ông T nên xác định đây là là nợ riêng của bà H vì vậy bà H phải tự có trách nhiệm trả cho bà S số tiền này.

Về lãi suất: Do bà S không có yêu cầu ông T và bà H trả lãi nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Do trong số tiền bà H mượn của bà S là 345.000.000đ, bà H chỉ chứng minh được nợ chung của bà H và ông T là 45.000.000đ, số tiền còn lại 300.000.000đ Hội đồng xét xử xác định là nợ riêng của bà H nên việc bà S yêu cầu ông T và bà H, mỗi người có trách nhiệm trả cho bà S số tiền 172.500.000 đồng là không có cơ sở chấp nhận.

Như vậy về nợ chung: Buộc bà Trần Thị Xuân H có trách nhiệm trả cho bà Trần Thị S số tiền 22.500.000 đồng. Buộc ông Huỳnh Văn T có trách nhiệm trả cho bà Trần Thị S số tiền 22.500.000 đồng.

Về nợ riêng: Buộc bà Trần Thị Xuân H có trách nhiệm trả cho bà Trần Thị S số tiền 300.000.000 đồng.

Về án phí: Ông Huỳnh Văn T phải chịu án phí ly hôn số tiền 300.000 đồng, án phí cấp dưỡng nuôi con số tiền 300.000 đồng và án phí dân sự sơ thẩm số tiền 1.125.000 đồng.

Bà Trần Thị Xuân H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền 16.125.000 đồng.

 

Do yêu cầu của bà Trần Thị S được chấp nhận nên bà S không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 điều 26, khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ Điều 39, Điều 463, Điều 466 của Bộ luật dân sự.

Áp dụng Điều 27, khoản 2 Điều 37, Điều 55, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Căn cứ khoản 6 Điều 26, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Huỳnh Văn T được ly hôn bà Trần Thị Xuân H.

2. Về con chung: Ghi nhận sự tự nguyện của ông T và bà H, giao cháu Huỳnh Diễm Hoàng C, sinh ngày 26/3/2008 cho bà Trần Thị Xuân H trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu Hoàng C đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi con: Hàng tháng ông Huỳnh Văn T đóng góp cho bà Trần Thị Xuân H số tiền 1.000.000 đồng để cấp dưỡng nuôi cháu Huỳnh Diễm Hoàng C. Thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 8/2017 cho đến khi cháu C đủ 18 tuổi.

Ông Huỳnh Văn T có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc cháu Huỳnh Diễm Hoàng C mà không ai được cản trợ.

3. Về tài sản chung: Ông T và bà H trình bày tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về nợ chung: Buộc bà Trần Thị Xuân H có trách nhiệm trả cho bà Trần Thị S số tiền 22.500.000 đồng. Buộc ông Huỳnh Văn T có trách nhiệm trả cho bà Trần Thị S số tiền 22.500.000 đồng.

5. Về nợ riêng: Buộc bà Trần Thị Xuân H có trách nhiệm trả cho bà Trần Thị S số tiền 300.000.000 đồng.

Kể từ ngày bà Trần Thị S có đơn yêu cầu thi hành án thì hàng tháng bà Trần Thị Xuân H và ông Huỳnh Văn T còn phải trả lãi cho bà S theo mức lãi suất 10%/năm, đối với số tiền chậm thi hành án.

5. Về án phí: Ông Huỳnh Văn T phải chịu án phí ly hôn số tiền 300.000 đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí ông T đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0007203 ngày 12/6/2017 của Chi cục thi hành án Dân sự thành phố S. Ông T còn phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con số tiền 300.000đ và án phí dân sự sơ thẩm số tiền 1.125.000 đồng.

Bà Trần Thị Xuân H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền 16.125.000 đồng.

Hoàn trả cho bà Trần Thị S số tiền tạm ứng án phí đã nộp 8.625.000 đồng theo biên lai thu số 0007767 ngày 21/7/2017 của Chi cục thi hành án Dân sự thành phố Sóc Trăng.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh sóc Trăng xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

298
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 51/2017/HNGĐ-ST ngày 31/08/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con và tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:51/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về