Bản án 50/2021/HS-ST ngày 19/03/2021 về tội môi giới mại dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẦU GIẤY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 50/2021/HS-ST NGÀY 19/03/2021 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM

Ngày 19 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 39/2021/HSST ngày 08/02/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2021/QĐXXST-HS ngày 24/02/2021, đối với bị cáo:

Họ và tên: VI THỊ N; sinh năm 1992; Giới tính: Nữ; ĐKHKTT: Thôn K, xã Đ, huyện T, tỉnh L; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Nùng; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông: Vi Đức T; Con bà: Nông Thị M; Tiền án, tiền sự: Không; Danh chỉ bản số: 000000450 do Công an quận Cầu Giấy lập ngày 27/7/2020. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 17/7/2020 đến ngày 26/7/2020. Hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; Có mặt tại phiên tòa.

*/ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Dương Việt H, sinh năm 1985; Nơi ĐKHKTT: Xã P, huyện S, thành phố H (vắng mặt);

2. Anh Phạm Đức T, sinh năm: 1986; Nơi ĐKHKTT: xã T, huyện L, tỉnh B (vắng mặt);

3. Chị Trần Thị Phương A, sinh năm 1999; Nơi ĐKHKTT: Tổ 30 K, thành phố T, tỉnh T (vắng mặt);

4. Chị Phùng Thị Diệu L, sinh năm: 1996; Nơi ĐKHKTT: xã T, huyện S, tỉnh T (có mặt);

5. Chị Vũ Thùy L1, sinh năm: 1992; Nơi ĐKHKTT: số 44 đường Q, phường C, thành phố C, tỉnh Q (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Vi Thị N bị Viện Kiểm Sát nhân dân quận Cầu Giấy truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 21 giờ 45 phút ngày 16/7/2020, tại đầu ngõ 110 đường T, phường T, quận C, thành phố Hà Nội, đội Cảnh sát hình sự - Công an quận Cầu Giấy phát hiện Vi Thị N có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra, cơ quan công an phát hiện trong chiếc điện thoại di động Iphone 11 Pro Max màu xanh sim số 0981043xxx của N có nhiều tin nhắn liên quan đến nội dung mua bán dâm nên đã đưa N về trụ sở công an quận Cầu Giấy để làm việc và thu giữ chiếc điện thoại trên.

Đến khoảng 22 giờ 07 phút cùng ngày, đội Cảnh sát hình sự - Công an quận Cầu Giấy tiến hành kiểm tra hành chính Khách sạn M, địa chỉ: Số 12 đường N, phường T, quận C, thành phố Hà Nội phát hiện tại phòng 501, Phạm Đức T (sinh năm: 1986; HKTT: xã T, huyện L, tỉnh B) đang quan hệ tình dục với Dương Thị L (tên thật là Phùng Thị Diệu L, sinh năm: 1996, HKTT: xã T, huyện S, tỉnh T), tại phòng 403 có Dương Việt H (sinh năm 1985, Nơi ĐKHKTT: Xã P, huyện S, thành phố H) và Trần Thị Phương A (sinh năm 1999, HKTT: Tổ 30 K, thành phố T, tỉnh T); H khai đi cùng T đến mua dâm với Phương A nhưng chưa kịp quan hệ tình dục thì bị cơ quan Công an kiểm tra phát hiện. Tại chỗ, Phương A, L, H và T khai việc mua bán dâm thông qua Vi Thị N, tổ công tác đã đưa các đối tượng về trụ sở công an quận Cầu Giấy để làm rõ.

Ngoài ra, Cơ quan công an đã thu giữ của Trần Thị Phương A: 01 điện thoại Iphone XS max, sim số 0966361xxx và số tiền 3.500.000 đồng; thu giữ của Phùng Thị Diệu L: 01 điện thoại Iphone 6S màu hồng, sim số 0333222xxx và số tiền 3.500.000 đồng; thu giữ của Dương Việt H: 01 điện thoại Iphone 5 màu đen, sim số 0935718xxx và 01 bao cao su chưa qua sử dụng; thu giữ của Phạm Đức T: 01 bao cao su đã qua sử dụng; 01 vỏ bao cao su bị xé; thu giữ của khách sạn M 01 sổ quản lý kinh doanh dịch vụ lưu trú; 01 thẻ nhớ Camera màu đen - đỏ nhãn hiệu Sandisk do chị Vũ Thị T (SN: 1983, HKTT: Xóm 1, thôn Q, xã V, huyện T, thành phố H) giao nộp.

Cơ quan công an đã thu giữ của quán Karaoke I: 01 cáp sạc nguồn Camera màu đen, 01 đầu thu Camera màu đen nhãn hiệu Dahua. Qua kiểm tra camera, có hình ảnh Dương Việt H, Phạm Đức T, Trần Thị Phương A, Phùng Thị Diệu L, Vi Thị N đến quán Karaoke I hát vào ngày 16/7/2020.

Ngày 17/7/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an quận Cầu Giấy đã ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Vi Thị N.

Tại Cơ quan điều tra, Vi Thị N khai: N là quản lý tại quán Karaoke I, địa chỉ số 116 đường T, phường T, quận C, thành phố Hà Nội, làm nhiệm vụ tiếp đón, đặt bàn và gọi nhân viên nữ hát cùng khách. Nếu khách có nhu cầu mua dâm thì N sẽ môi giới việc mua bán dâm cho khách và gái bán dâm. N sử dụng số điện thoại 0981043xxx và zalo có nick name “Nọc Nọc” để nhắn tin thỏa thuận việc mua bán dâm. Khoảng 18 giờ 03 phút ngày 16/7/2020, Dương Việt H (sinh năm: 1985, HKTT: Xã P, huyện S, thành phố H) (tại Cơ quan điều tra N mới biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể của H) sử dụng tài khoản zalo “Hưng Dương V” nhắn tin vào zalo của N đặt vấn đề đến hát tại quán Karaoke I và bảo N sắp xếp cho 3 nhân viên ngồi hát cùng, sau khi hát xong sẽ đi bán dâm. N đồng ý và thống nhất giá mua dâm là 4.000.000 đồng/người/lượt, khách mua dâm sẽ đưa trực tiếp tiền mua dâm cho N. Sau đó N gọi điện cho H1 (H1 là bạn xã hội, không biết rõ nhân thân lai lịch cụ thể) và Phùng Thị Diệu L (sinh năm: 1996, HKTT: xã T, huyện S, tỉnh T) đi bán dâm cho khách với giá 4.000.000 đồng/lượt. H1 và L đồng ý. Tiếp đó N nhắn tin cho Vũ Thùy L1 (Sinh năm: 1992, HKTT: số 44 đường Q, phường C, thành phố C, tỉnh Q) đi bán dâm cho khách nhưng L1 nhắn tin nói bận và cho Trần Thị Phương A số điện thoại của N để Phương A tự liên hệ về việc bán dâm. Sau đó N nhận được điện thoại của Phương A, N bảo Phương A đến quán Karaoke I để hát với khách và sau đó sẽ đi bán dâm. Sau đó, N cùng Phương A, Diệu L và H1 đến phòng 503 quán Karaoke I thì gặp Dương Việt H, Phạm Đức T và L (là bạn xã hội của T, không biết rõ nhân thân lai lịch cụ thể) ngồi hát cùng nhau. Khoảng 30 phút sau, H thanh toán tiền phòng hát rồi H và T mỗi người đưa cho N 4.000.000 đồng tiền mua dâm còn L ra về. Sau khi thanh toán tiền hát và tiền mua dâm xong, H và T đi đến khách sạn M, địa chỉ: Số 12 đường N, phường T, quận C, thành phố Hà Nội để đặt phòng trước. Đến khoảng 21 giờ 40 phút cùng ngày, H nhắn tin cho N bảo 02 gái bán dâm đến phòng 403 và 501 nhà nghỉ M. N bảo Phương A lên phòng 403, Diệu L lên phòng 501 và đưa cho mỗi người 3.500.000 đồng là tiền bán dâm. Diệu L và Phương A bắt xe taxi đi đến khách sạn M. Còn 1.000.000 đồng, N đưa cho H1 người ngồi hát cùng L, sau đó N đi ra đầu ngõ 110 đường T, phường T, quận C, thành phố Hà Nội thì bị Công an kiểm tra bắt giữ, thu giữ tang vật như đã nêu trên. Mục đích N môi giới mại dâm là để kéo khách đến quán Karaoke I để hưởng phần trăm tiền phòng hát. Đây là lần đầu tiên N môi giới mại dâm và chưa được hưởng lợi gì.

Phùng Thị Diệu L và Trần Thị Phương A khai: L và Phương A là gái bán dâm quen biết Vi Thị N qua bạn bè ngoài xã hội, ngày 16/7/2020 N là người giới thiệu khách mua dâm cho L và Phương A đi bán dâm tại nhà nghỉ M, L và Phương A mỗi người đã nhận số tiền 3.500.000 đồng là từ N.

Dương Việt H và Phạm Đức T đều khai: H đã sử dụng Zalo “Hưng Dương V” nhắn tin đến zalo “Nọc Nọc” của Vi Thị N để giao dịch mua bán dâm vào ngày 16/7/2020 tại nhà nghỉ M.

Kết quả kiểm tra điện thoại Iphone 11 Pro Max màu xanh, có lắp sim số 0981043xxx của Vi Thị N và 01 điện thoại Iphone 5 màu đen, sim số 0935718xxx thu giữ của Dương Việt H đều thể hiện ở phần ứng dụng Zalo có nội dung tin nhắn trao đổi về việc mua bán dâm giữa N và H.

Lời khai của Vi Thị N phù hợp với lời khai Phùng Thị Diệu L, Trần Thị Phương A, Dương Việt H và Phạm Đức T và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Đối với Vũ Thùy L1 là gái bán dâm và có quen biết Vi Thị N qua mối quan hệ xã hội. N gọi điện qua ứng dụng Zalo cho L1 để L1 đi bán dâm, nhưng do L1 có việc bận nên đã cho Phương A số điện thoại của N để Phương A tự liên hệ với N đi bán dâm. L1 không biết giữa Phương A và N thỏa thuận như thế nào về việc bán dâm nên Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an quận Cầu Giấy không đề cập xử lý đối với hành vi của Vũ Thùy L1. Cơ quan công an đã thu giữ của L1: 01 điện thoại di động Iphone 5 màu trắng, có lắp sim số 0355163xxx.

Về vật chứng gồm: 01 điện thoại Iphone XS max, sim số 0966361xxx và số tiền 3.500.000 đồng thu giữ của Trần Thị Phương A; 01 điện thoại Iphone 6S màu hồng, sim số 0333222xxx và số tiền 3.500.000 đồng thu giữ của Phùng Thị Diệu L; 01 điện thoại Iphone 5 màu đen, sim số 0935718xxx và 01 bao cao su chưa qua sử dụng thu giữ của Dương Việt H; 01 bao cao su đã qua sử dụng; 01 vỏ bao cao su bị xé thu giữ của Phạm Đức T; 01 điện thoại di động Iphone 5 màu trắng, sim số 0355163xxx thu giữ của Vũ Thùy L1; 01 điện thoại di động Iphone 11 Pro Max màu xanh, sim số 0981043xxx thu giữ của Vi Thị N. Quá trình điều tra xác định các đối tượng đã sử dụng để thực hiện hành vi mua bán dâm.

Đối với Khách sạn M có địa chỉ tại số 12 đường N, phường T, quận C, thành phố Hà Nội, chủ nhà nghỉ đăng kí kinh doanh là anh Nguyễn Văn D (Sinh năm: 1976; ĐKHKTT: số 16, ngách 79/15/8, đường D, tổ 32, phường Q, quận C, thành phố H). Anh D khai: cơ sở kinh doanh có giấy phép kinh doanh và giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự. Anh D giao cho chị Vũ Thị T làm lễ tân. Chị T khai: Khoảng 21 giờ 50 phút ngày 16/7/2020, có 02 khách là Dương Việt H và Phạm Đức T thuê 02 phòng 403 và 501 để lưu trú nhưng chị T chưa đăng ký lưu trú cho khách. Việc H, T, L, Phương A mua bán dâm chị T không biết. Do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Cầu Giấy không đề cập xử lý đối với chị T, anh D. Ngày 27/9/2020, Trưởng công an quận Cầu Giấy đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với anh Nguyễn Văn D (người đại diện hộ kinh doanh) về hành vi cơ sở kinh doanh lưu trú không thực hiện việc thông báo lưu trú với cơ quan Công an theo quy định có người đến lưu trú tại điểm đ khoản 02 điều 08 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính Phủ: phạt tiền 1.500.000 đồng.

Đối với Dương Việt H, Phạm Đức T có hành vi mua dâm, ngày 27/9/2020 Công an quận Cầu Giấy đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại khoản 1 Điều 22 Nghị định 167/2013-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ. Đối với Trần Thị Phương A và Phùng Thị Diệu L có hành vi bán dâm, ngày 27/9/2020 Công an quận Cầu Giấy đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại khoản 1 Điều 23 Nghị định 167/2013-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ.

Ngày 13/01/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Cầu Giấy ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả 01 thẻ nhớ Camera màu đen – đỏ nhãn hiệu Sandisk, 01 sổ đăng ký lưu chú cho Khách sạn M; 01 cáp sạc nguồn Camera màu đen; 01 đầu thu Camera màu đen nhãn hiệu Dahua cho quán hát Karaoke I.

Tại bản cáo trạng số 48/CT-VKSCG ngày 05/02/2021, Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy truy tố bị cáo Vi Thị N về tội “Môi giới mại dâm” theo điểm đ khoản 2 Điều 328 BLHS năm 2015.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Đại diện Viện kiểm sát luận tội: Giữ nguyên cáo trạng, sau khi phân tích tính chất, mức độ, hậu quả hành vi cũng như nhân thân bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 328; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo: Vi Thị N từ 38 đến 44 tháng tù.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước:

- 01 điện thoại Iphone XS max, sim số 0966361xxx; 01 điện thoại Iphone 6S màu hồng, sim số 0333222xxx; 01 điện thoại Iphone 5 màu đen, sim số 0935718xxx; 01 điện thoại di động Iphone 5 màu trắng, có lắp sim số 0355163xxx; 01 điện thoại di động Iphone 11 Pro Max màu xanh, có lắp sim số 0981043xxx và số tiền 7.000.000 đồng (Bảy triệu đồng).

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bao cao su chưa qua sử dụng; 01 bao cao su đã qua sử dụng; 01 vỏ bao cao su bị xé.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Cầu Giấy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện. Do đó, các hành vi, Quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên toà hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, với lời khai người làm chứng, kết luận giám định, vật chứng thu giữ được và phù hợp các tài liệu khác có trong hồ sơ đầy đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 21 giờ 40 phút ngày 16/7/2020, tại phòng 403 và phòng 501 Khách sạn M (địa chỉ: Số 12 đường N, phường T, quận C, thành phố Hà Nội), Vi Thị N đã có hành vi môi giới cho Phùng Thị Diệu L bán dâm cho Phạm Đức T và Trần Thị Phương A bán dâm cho Dương Việt H với giá 4.000.000 đồng/người/lượt.

Hành vi nêu trên của Vi Thị N đã cấu thành tội “Môi giới mại dâm” theo điểm đ khoản 2 Điều 328 BLHS năm 2015.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trật tự công cộng và an toàn xã hội, đạo đức xã hội, nếp sống văn minh và gây bất bình trong nhân dân. Tính chất hành vi phạm tội thể hiện: Bị cáo là người đã trưởng thành có nhận thức về tác hại của mại dâm đối với bản thân và cộng đồng, cũng như mọi hành vi vi phạm có liên quan đến các tệ nạn xã hội trong đó có tệ nạn mại dâm đều bị pháp luật nghiêm trị, nhưng do hám lợi không chịu rèn luyện, lao động cố ý đi vào con đường phạm tội, nên cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian đủ điều kiện cải tạo giáo dục và phòng ngừa.

Tuy nhiên, Hội đồng xét xử có xem xét đến bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, phạm tội lần đầu, nhân thân chưa tiền án, tiền sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 điện thoại Iphone XS max, sim số 0966361xxx; 01 điện thoại Iphone 6S màu hồng, sim số 0333222xxx; 01 điện thoại Iphone 5 màu đen, sim số 0935718xxx và 01 điện thoại di động Iphone 5 màu trắng, có lắp sim số 0355163xxx; 01 điện thoại di động Iphone 11 Pro Max màu xanh, có lắp sim số 0981043xxx là phương tiện liên lạc dùng để thực hiện hành vi phạm tội cần tịch thu sung công quỹ nhà nước.

- Đối với số tiền 7.000.000 đồng (Bảy triệu đồng) là tiền do phạm tội mà có, cần tịch thu sung công quỹ nhà nước.

- Đối với số tiền 1.000.000 đồng (Một triệu đồng), N khai đã đưa cho H1 người ngồi hát cùng L, do không xác định được hiện H1 ở đâu, không có căn cứ chứng minh việc N đưa cho H1 số tiền trên, nên cần truy thu số tiền 1.000.000 đồng đối với Vi Thị N.

- Đối với 01 bao cao su chưa qua sử dụng; 01 bao cao su đã qua sử dụng; 01 vỏ bao cao su bị xé đã qua sử dụng cần tịch thu tiêu hủy. [5] Về án phí và quyền kháng cáo:

- Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố : Bị cáo Vi Thị N phạm tội “Môi giới mại dâm”.

Áp dụng: - Điểm đ khoản 2 Điều 328; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ Luật hình sự 2015;

- Điểm a khoản 2 Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Vi Thị N 38 (Ba mươi tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày ngày 17/7/2020 đến ngày 26/7/2020.

Tịch thu sung công quỹ nhà nước:

- 01 điện thoại Iphone XS max, sim số 0966361xxx; 01 điện thoại Iphone 6S màu hồng, sim số 0333222xxx; 01 điện thoại Iphone 5 màu đen, sim số 0935718xxx, 01 điện thoại di động Iphone 5 màu trắng, có lắp sim số 0355163xxx; 01 điện thoại di động Iphone 11 Pro Max màu xanh, có lắp sim số 0981043xxx và số tiền 7.000.000 đồng (Bảy triệu đồng). (Số tang vật trên hiện lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Cầu Giấy theo biên bản giao nhận vật chứng số 92/GN/THA-CA ngày 03/02/2021 và giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 20 tháng 7 năm 2020 của Kho bạc Nhà nước Cầu Giấy).

- Truy thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 1.000.000 đồng đối với Vi Thị N.

- Tịch thu tiêu hủy 01 bao cao su chưa qua sử dụng; 01 bao cao su đã qua sử dụng; 01 vỏ bao cao su bị xé đã qua sử dụng.

Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt, có quyền kháng cáo phần có liên quan đến quyền lợi của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt, có quyền kháng cáo phần có liên quan đến quyền lợi của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2021/HS-ST ngày 19/03/2021 về tội môi giới mại dâm

Số hiệu:50/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cầu Giấy - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về