Bản án 50/2019/HS-ST ngày 16/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 50/2019/HS-ST NGÀY 16/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân Quận Lê Chân xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 42/2019/TLST-HS ngày 28 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 70/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh ngày 09-11-1988, tại Q. Nơi cư trú: Khu X, phường Y, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 01/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn Đ và bà Vũ Thị K; có vợ là Nguyễn Thị H và 01 con sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: 01 tiền án, án số 143/2009/HSST ngày 21-10-2009 Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xử 08 năm tù tội Cố ý gây thương tích. Ra tù ngày 19-8-2016; nhân thân: (01 tiền án đã được xóa án tích) Án số 66/2007/HSST ngày 31/12/2007 Tòa án nhân dân huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh xử 09 tháng tù tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản; tạm giữ ngày 21-12-2018, tạm giam ngày 22-12-2018; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 15 giờ 50 phút ngày 20-12-2018, Tổ công tác Đoàn đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy số 1 - Bộ tư lệnh cảnh sát biển phối hợp cùng Công an phường A bắt quả tang Nguyễn Văn T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy tại khu vực trước cửa nhà số 211 T, phường A, quận L, thành phố Hải Phòng. Thu giữ trong túi áo khoác bên trái T đang mặc 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy. Thu giữ của T 01 xe máy BKS: 14P2 – 1143; 01 điện thoại di động màu đen đã cũ (không gắn thẻ sim) và 70.000 đồng nên đưa T cùng vật chứng về trụ sở lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Bản kết luận giám định số 676/KLGĐ ngày 21-12-2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Hải Phòng kết luận:tinh thể màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn T là ma túy có khối lượng 4,8032 gam, là loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn T khai nhận: khoảng 15 giờ ngày 20-12-2018, T điều khiển xe máy BKS 14P2 – 1143 từ Quảng Ninh sang Hải Phòng với mục đích mua ma túy đá về sử dụng. Trên đường đi, T gọi điện cho một nam giới trước đây đã từng bán ma túy cho mình ( T không biết tên, lai lịch, địa chỉ) hỏi mua 3.000.000 đồng tiền ma túy đá. Người nam giới đồng ý và hẹn T giao dịch tại quán nước đầu ngõ 211 Tôn Đức T, quận L, Hải Phòng. Khi đến điểm hẹn, T ngồi chờ ở quán nước, để áo khoác của mình bên cạnh. Khoảng 10 phút sau, người nam giới đến, T mua 3.000.000 đồng và người bán để trong túi áo của T 01 túi nilong chứa ma túy đá. T mặc áo khoác, trả tiền nước định ra về thì bị bắt giữ cùng vật chứng.

Do người nam giới T gọi điện nhờ mua hộ ma túy, T không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra Công an quận Lê Chân không có căn cứ điều tra làm rõ.

Đối với chiếc xe máy BKS 14P2 - 1143 thu giữ của T, qua điều tra xác minh, chủ sở hữu là anh Bùi Văn N sinh năm 1979, nơi cư trú: khu chùa B, thị xã Q, tỉnh Q. Anh N cho cháu ruột của mình là Bùi Huy T, sinh năm 1988, nơi cư trú: khu chùa B, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh mượn xe để làm phương tiện đi lại. Ngày 20-12-2018, Tùng cho T mượn xe và không biết việc T dùng xe để đi mua ma túy. Hiện, Cơ quan CSĐT đã trả lại cho anh N quản lý, sử dụng.

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhậnhành vi phạm tội như nội dung nêu trên.

Bản Cáo trạng số 63/CT-VKS ngày 27-3-2019, Viện Kiểm sát nhân dân Quận Lê Chân đã truy tố Nguyễn Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên toà luận tội bị cáo vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng và đề nghị HĐXX: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử bị cáo Nguyễn Văn T mức án từ 54 đến 60 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng số ma túy còn lại sau giám định và 01 điện thoại di động nhãn hiệu nokia đã qua sử dụng; trả lại bị cáo số tiền 70.000 đ nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận Lê Chân, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân Quận Lê Chân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Hồi 15 giờ 50 ngày 20-12-2018, Nguyễn Văn T đã có hành vi cất giữ trái phép 4,8032 gam loại Methamphetamine để sử dụng và bị bắt quả tang tại khu vực trước cửa nhà số 211 Tôn Đức T, quận L, thành phố Hải Phòng. Nên đã đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” vi phạm điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, đúng như VKSND Quận Lê Chân đã truy tố.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ quản lý độc quyền chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự trị an xã hội. Về nhân thân bị cáo có một tiền án đã đương nhiên được xóa án tích. Bản thân còn có 01 tiền án chưa được xóa án tích, do mới ra tù ngày 19-8-2016. Do vậy lần phạm tội này bị cáo phải bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Qua đó cho thấy bị cáo có nhân thân xấu, ý thức chấp hành pháp luật kém nên cần xử bị cáo mức án nghiêm, bắt bị cáo cách ly xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo, để bị cáo cai nghiện và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo nên cũng xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có tài sản và thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng:Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 27-3-2019 có thu giữ gồm: 01 phong bì niêm phong đựng số ma túy còn lại sau giám định, 01 điện thoại di động có IMEI: 351670094737140 và số tiền 70.000đồng. Xét phong bì đựng vật cấm tàng trữ, lưu hành, còn 01 điện thoại di động của bị cáo đã bị hỏng, không sử dụng được nên tịch thu tiêu hủy. Đối với số tiền 70.000đồng theo giấy nộp tiền số 0004338 ngày 27-3-2019 là của bị cáo nên tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt: Nguyễn Văn T 57(năm mươi bẩy) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ ngày 21 tháng 12 năm 2018.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ các điểm a,c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng số ma túy còn lại sau giám định và 01 điện thoại di động có IMEI: 351670094737140, không có thẻ sim.

Tạm giữ số tiền 70.000đ (bảy mươi nghìn đồng) của bị cáo theo giấy nộp tiền số 0004338 ngày 27-3-2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự Quận Lê Chân để đảm bảo thi hành án.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27-3-2019.

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2019/HS-ST ngày 16/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:50/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về