Bản án 48/2019/HS-ST ngày 23/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHỔ YÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 48/2019/HS-ST NGÀY 23/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 4 năm 2019 tại Hội trường Ủy ban nhân dân xã Thuận Thành, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 44/2019/TLST-HS ngày 13 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2019/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Dương Như Ch, tên gọi khác: không, sinh năm 1990, tại Sông Công - Thái Nguyên.

Nơi cư trú: Tổ dân phố BV, phường TL, thành phố SC, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Như D và bà Nguyễn Thị C; vợ, con: chưa có.

Tiền án: Không. Tiền sự: không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/12/2018 đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên (Có mặt).

Người chứng kiến:

1. Anh Trần Văn Th, sinh năm: 1982; Trú tại: Xóm HT, xã TT, thị xã PY, tỉnh Thái Nguyên (Vắng mặt).

2. Anh Lê Hồng Ph, sinh năm: 1972; Trú tại: Xóm KT, xã TT, thị xã PY, tỉnh Thái Nguyên (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do nghiện ma túy nên khoảng 09 giờ ngày 19/12/2018, Dương Như Ch một mình từ nhà đi đến khu vực xóm KT, xã TT, thị xã PY mục đích để mua ma túy về sử dụng. Khi đến xóm KT, Ch đi bộ vào một ngõ nhỏ phía bên trái hành lang đường Quốc lộ 3 cũ theo hướng Thái Nguyên – Hà Nội, vào một ngôi nhà có cửa sắt đóng kín, Ch đưa số tiền 143.000đ (một trăm bốn mươi ba nghìn đồng) qua khe cửa sát với nền bê tông vào bên trong, bên trong có người cầm tiền rồi đưa cho Ch 01 gói heroine (Ch không nhìn thấy mặt người bán nên không biết là ai). Sau khi mua được ma túy, Ch đi ra ngoài hành lang đường Quốc lộ 3 để về thì bị Tổ công tác của Công an thị xã PY làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát tại khu vực xóm KT, xã TT, thị xã PY, phát hiện nghi vấn Dương Như Ch có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Qua kiểm tra, Ch tự nguyện giao nộp cho tổ công tác 01 gói giấy mầu trắng, xanh, cam, bên trong có chứa chất rắn mầu trắng đục. Ch khai nhận là ma túy (heroine). Tổ công tác đã lập biên bản phạm tội quả tang và niêm phong số vật chứng thu giữ của Chinh đưa về Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã PY để xử lý theo thẩm quyền.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Phổ Yên đã tiến hành cân trọng lượng không bì gói ma túy thu giữ của Ch xác định có khối lượng là 0,136 gam. Tại bản kết luận giám định số 7159/C09-TT2 ngày 27/12/2018 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an, kết luận: Mẫu chất rắn mầu trắng thu giữ của Dương Như Ch là ma túy, loại Heroine.

Tại cơ quan điều tra Dương Như Ch đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.

Tại bản cáo trạng số 41/CT-VKSPY ngày 12/3/2019 Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo Dương Như Chinh về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai ở cơ quan điều tra.

Kết thúc phần thẩm vấn, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt Dương Như Ch từ 18 đến 24 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ 01 bì niêm phong có dấu đỏ ký hiệu 7159/C09 (TT2), bên trong có 0,081 gam heroine ghi “Mẫu vật hoàn trả sau giám định”; 01 phong bì niêm phong có dấu đỏ ký hiệu N ghi mẫu lưu kho.

Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp 200.000đồng án phí hình sự.

Trong phần tranh luận, bị cáo thừa nhận nội dung truy tố là đúng. Bị cáo không tranh luận gì. Nói lời sau cùng, bị cáo hứa sửa chữa và xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã PY, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã PY, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa là hoàn toàn khách quan, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác thu thập được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Hồi 09 giờ 20 phút, ngày 19/12/2018, tại khu vực hành lang đường Quốc lộ 3 cũ, thuộc xóm Kim Tỉnh, xã Trung Thành, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Dương Như Ch đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,136 gam heroine, mục đích sử dụng cho bản thân thì bị bắt quả tang cùng vật chứng.

Hành vi, ý thức của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành của tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Do đó bản cáo trạng số 41/CT-VKSPYngày 12/3/2019 của Viện kiểm sát nhân nhân thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo về tội danh và Điều khoản viện dẫn nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Nội dung điểm c khoản 1 Điều 249 quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

....

c) Heroine, …có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;…”.

[3] Xét tính chất vụ án: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, dù biết rõ ma tuý là vật do Nhà nước độc quyền quản lý, song do nghiện ma tuý, đã dẫn bị cáo vào con đường phạm tội, hành vi của bị cáo thể hiện coi thường pháp luật, gây mất trật tự trị an tại địa phương, bất bình trong quần chúng nhân dân, là nguyên nhân phát sinh, gia tăng các loại tội phạm khác trên địa bàn, tiếp tay cho những đối tượng buôn bán ma túy. Do đó việc truy tố, xét xử đối với bị cáo là cần thiết để răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Xét về nhân thân: Bị cáo xuất thân trong gia đình lao động thuần tuý, được gia đình nuôi ăn học nhưng không có ý chí tu dưỡng, rèn luyện bản thân, là đối tượng nghiện ma tuý tại địa phương.

[5] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[6] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[7] Về hình phạt chính: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy từ nhiều năm nay, đã được gia đình động viên từ bỏ ma túy nhưng bị cáo đã không quyết tâm từ bỏ ma túy dẫn đến việc phạm tội, thể hiện bị cáo là người coi thường pháp luật. Vì vậy cần có hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, buộc cách ly xã hội một thời gian mới có thể cải tạo bị cáo thành người có ích cho xã hội được và cũng để răn đe phòng ngừa chung.

Mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên toà là phù hợp, có căn cứ được chấp nhận.

[8] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có việc làm ổn định, phạm tội không mang tính chất vụ lợi nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[9] Về vật chứng: Số ma túy còn lại sau giám định và các bao bì kèm theo là vật Nhà nước cấm lưu hành, không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà Nước.

[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[12] Về các hành vi khác: Nguồn gốc số Heroine, Ch khai mua tại một ngôi nhà có cửa sắt đóng kín, nằm trong ngõ nhỏ, ở bên trái đường Quốc lộ 3 cũ theo hướng Thái Nguyên - Hà Nội (Chinh không biết nhà của ai, khi mua Ch không nhìn thấy người bán) tại khu vực xóm KT, xã TT, thị xã PY, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Phổ Yên tiếp tục điều tra xử lý sau.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Dương Như Ch phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Về hình phạt chính:

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Dương Như Chinh 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/12/2018.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam bị cáo Dương Như Ch 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Ch.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu, tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong màu trắng ký hiệu N, bên trong có lưu vỏ bao mẫu niêm phong ký hiệu A niêm phong thu giư khi bắt quả tang Dương Như Ch; 01 phong bì niêm phong màu trắng số 7159/C09(TT2) của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an, bên trong có 0,081 gam Heroine của Dương Như Ch, hoàn lại sau giám định.

( Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thị xã Phổ Yên và Chi cục thi hành án dân sự thị xã Phổ Yên ngày 15/3/2019 ).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Dương Như Ch phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm nộp vào ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Án xử công khai sơ thẩm, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2019/HS-ST ngày 23/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:48/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phổ Yên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về