Bản án 480/2019/HS-ST ngày 16/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 480/2019/HS-ST NGÀY 16/10/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 448/2019/TLST-HS ngày 12 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 460/2019/QĐXXST-HS ngày 24/9/2019 đối với bị cáo:

Đỗ Kim T; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Sinh năm 1988, tại: Tỉnh Thái Bình; Nơi cư trú: Thôn N, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Không; Chức vụ, Đảng phái, Đoàn thể: Không; Con ông Đỗ Kim D, sinh năm 1957 (còn sống) và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1959 (còn sống); Bị cáo là con thứ 02 trong gia đình có 03 anh em; Bị cáo có vợ tên Lê Thị H, sinh năm 1994; Có 01 con sinh năm 2017; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 31/7/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh Thái Bình xử phạt 02 (Hai) năm tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo bản án số 73/2015/HSST; Bị cáo bị bắt quả tang ngày 28/5/2019, chuyển tạm giam theo lệnh tạm giam số 272 ngày 05/6/2019 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B; Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B. Có mặt.

* Người bị hại: Chị Đinh Thị Thu P, sinh năm 1993.

Thường trú: Thôn M, xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa.

Hiện trú tại: Số 86, tổ 8, ấp Đ, xã H (nay là khu phố Đ, phường H), thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ, ngày 28/5/2019, Đỗ Kim T đi xe đạp một mình tới trước tiệm cắt tóc “Thu P” tại địa chỉ số 86, tổ 8, khu phố Đ, phường H, thành phố B do chị Đinh Thị Thu P làm chủ thì phát hiện cửa tiệm mở, bên trong có dựng chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead, biển số 79H1-656.66 có cắm sẵn chìa khóa, không có người trong coi nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. T để xe đạp ở ngoài rồi đột nhập vào trong dắt chiếc xe mô tô trên ra ngoài đường, cùng lúc đó chị p từ trong phòng ngủ đi ra phát hiện nên tri hô. T bỏ chiếc xe mô tô lại và lấy xe đạp bỏ chạy nhưng bị người dân đuổi theo bắt giữ giao cho Công an phường H, thành phố B. Công an phường H đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B điều tra xử lý theo quy định. Quá trình làm việc T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo.

Về các vấn đề khác của vụ án:

Tại bản kết luận định giá tài sản số 210/TCKH-HĐĐG ngày 31/05/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng Hình sự Ủy ban nhân dân thành phố B kết luận: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead, biển số 79H1-656.66 có trị giá là 33.741.000 đồng (Ba mươi ba triệu, bảy trăm bốn mươi mốt nghìn đồng).

Vật chứng của vụ án gồm: 01 chiếc xe đạp đã cũ là tài sản thuộc sở hữu của T, T sử dụng vào việc phạm tội; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead, biển số 79H1-656.66 là tài sản thuộc sở hữu của chị Đinh Thị Thu P đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B thu hồi và trả lại cho chị p.

Về dân sự: Bị hại là chị Đinh Thị Thu P đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường.

Tại bản cáo trạng số 452/CT-VKSBH ngày 10/9/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo Đỗ Kim T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ Luật hình sự, xử phạt bị cáo Đỗ Kim T mức án từ 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng đến 02 (Hai) năm tù giam.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo biết lỗi và rất ân hận về hành vi phạm tội của mình, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm về gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng trong hồ sơ vụ án: Cơ quan điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, nguời tham gia tố tụng khác và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện theo quy định pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Đỗ Kim T đã khai nhận: Vào khoảng 08 giờ, ngày 28/05/2019, bị cáo T đi xe đạp một mình tới trước tiệm cắt tóc “Thu P” do chị Đinh Thị Thu P làm chủ thì phát hiện cửa tiệm mở, bên trong có dựng chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead, biển số 79H1-656.66 có cắm sẵn chìa khóa, không có người trong coi nên bị cáo nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Để thực hiện ý định, bị cáo T bỏ xe đạp ở ngoài rồi đột nhập vào trong dắt chiếc xe mô tô trên ra đến ngoài đường. Lúc này, chị P từ trong phòng ngủ đi ra phát hiện nên tri hô. Bị cáo T bỏ chiếc xe mô tô lại và lấy xe đạp bỏ chạy nhưng bị người dân đuổi theo bắt giữ, giao cho Công an phường H, thành phố B xử lý. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, lời khai bị hại, người làm chứng. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 như nội dung bản cáo trạng số 452/CT-VKSBH ngày 10/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố là có cơ sở, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, làm mất an ninh trật tự trị an xã hội tại địa phương. Bị cáo là người trưởng thành, có nhận thức, có khả năng lao động nuôi sống bản thân, nhưng không chịu tìm việc làm mà lại đi vào con đường phạm tội để có tiền tiêu xài. Vì vậy, cần thiết xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm nói chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng: không có;

Về tình tiết giảm nhẹ: Khi lượng hình phạt đối với bị cáo, xét thấy quá trình điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay, bị cáo T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho người bị hại nên gây thiệt hại không lớn là các tình tiết được quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xem xét quyết định hình phạt khi lượng hình.

Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng. Tuy nhiên, căn cứ vào tài liệu chứng cứ và lời khai tại phiên tòa của bị cáo cho thấy bị cáo không có thu nhập và không có tài sản nào khác. Nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là chị Đinh Thị Thu P đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường nên không đặt ra xem xét.

[5] Về xử lý vật chứng : Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead, biển số 79H1-656.66 là tài sản thuộc sở hữu của chị Đinh Thị Thu P đã được Cơ quan Cảnh sát điều fra Công an thành phố B thu hồi và trả lại cho chị P là phù hợp; Đối với 01 chiếc xe đạp cũ là tài sản thuộc sở hữu của bị cáo T đã sử dụng vào việc phạm tội nên căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự cần tuyên tịch thu sung vào công quỹ Nhà nước.

[6] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội buộc bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đỗ Kim T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Đỗ Kim T: 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù giam.

Thời hạn tù được tính từ ngày 28/5/2019.

Về xử lý vật chứng: áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu sung vào công quỹ Nhà nước 01 chiếc xe đạp cũ là tài sản thuộc sở hữu của bị cáo T đã sử dụng vào việc phạm tội. (Theo Quyết định chuyển vật chứng số 5105/QĐ-VKSBH ngày 10/9/2019 và Biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/9/2019).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

133
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 480/2019/HS-ST ngày 16/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:480/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về