Bản án 472/2019/DS-PT ngày 10/10/2019 về tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

A ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 472/2019/DS-PT NGÀY 10/10/2019 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, YÊU CẦU HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 10 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng, Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 316/2019/DSPT ngày 10/6/2019 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”. Do bản án số 05/2019/DS-ST ngày 16/4/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng bị kháng cáo; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1984/QĐXXST-DS ngày 03/9/2019. Giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn:

1.1 Ông Nguyễn Văn X, sinh năm 1960.

1.2 Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1963.

Cùng địa chỉ: tổ dân phố 4, thị trấn Đ1, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị C là ông Nguyễn Văn X (theo văn bản ủy quyền ngày 02/10/2017). (có mặt).

2. Bị đơn: Bà Phan Thị H, sinh năm 1971.

Đa chỉ: tổ dân phố 4, thị trấn Đ1, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng (có mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Ông Nguyễn T là Luật sư của Công ty Luật TNHH B, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Lâm Đồng (có mặt). 3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1 Ông Võ Văn S, sinh năm 1969.

Trú tại: tổ dân phố 4, thị trấn Đ1, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. (có mặt).

3.2 Ủy ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Lưu Tiến Ch; Chức vụ: Chủ tịch.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phan Thanh B; Chức vụ: Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng (theo văn bản ủy quyền ngày 06/7/2018). (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Năm 1992 vợ chồng ông Nguyễn Văn X, bà Nguyễn Thị C mua đất của ông Phan Đ có chiều ngang 5m và chiều dài 16m, tọa lạc tại tổ dân phố 4 thị trấn Đ1, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Năm 1994 vợ chồng ông tiến hành làm nhà và cùng với ông Đ tiến hành cắm mốc ranh giới. Năm 2004 UBND huyện Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ095100 với diện tích 85m2, thuộc thửa đất số 91, tờ bản đồ số 31 mang tên Nguyễn Thị C. Đến năm 2016 gia đình ông tiến hành xây nhà sát thửa đất số 90 (nhà của ông L), để trống 5m2 (chiều ngang 1m và chiều dài 5m) phía Đông giáp với nhà bà Phan Thị H làm khoảng trống để mở cửa sổ cho thông thoáng.

Tuy nhiên, vào ngày 26/8/2017 bà H tiến hành xây dựng lấn chiếm trên khoảng đất trống của ông với diện tích 5m2 (chiều ngang 1m và chiều dài 5m), thuộc thửa đất nói trên. Ông đã làm đơn yêu cầu UBND thị trấn Đ1 tiến hành hòa giải nhiều lần nhưng không đạt kết quả. Nay ông yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà H trả lại 5m2 đất đã lấn chiếm thuộc thửa đất số 91, tờ bản đồ số 31, diện tích 85m2 tọa lạc tại tổ dân phố 4, thị trấn Đ1, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng và trả lại hiện trạng đất như ban đầu. Đồng thời, yêu cầu Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AA 190489 do UBND huyện Đ cấp ngày 24/9/2004 cho hộ bà Phan Thị H đối với phần diện tích 5m2 đất tranh chấp.

Ti Bản án số 05/2019/DS-ST ngày 16/4/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã tuyên xử:

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn X, bà Trần Thị Của về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.

Xác định diện tích 5m2 đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng của bà Nguyễn Thị C. Buộc bị đơn bà Phan Thị H phải thanh toán cho vợ chồng ông X, bà C giá trị tài sản tranh chấp 5m2 là 38.000.000 đồng.

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị C, ông Nguyễn Văn X yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AA 190489 do UBND huyện Đ cấp ngày 24/9/2004 cho hộ bà Phan Thị H.

Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn bà Phan Thị H. Hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ095100 thuộc thửa đất số 91, tờ bản đồ số 31 do UBND huyện Đ cấp cho bà Nguyễn Thị C ngày 12/5/2004.

Các đương sự được quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền đăng ký biến động để được cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đúng với hiện trạng sử dụng.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về chi phí thẩm định, định giá tài sản, án phí, quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 26/4/2019, bị đơn là Phan Thị H, người có quyền nghĩa vụ liên quan là ông Võ Văn S kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Ngày 26/4/2019, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm đồng có Quyết định kháng nghị số 231/QĐKNPT-VKS-DS theo hướng sửa bản án sơ thẩm. Ngày 02/5/2019 nguyên đơn là bà Nguyễn Thị C kháng cáo một phần bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định kháng nghị, nguyên đơn, bị đơn và người có quyền, nghĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Ông Nguyễn Văn X đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị C cho rằng: ông bà có nhận chuyển nhượng một phần đất của ông Phan Đ (cha của bà H) có diện tích chiều ngang 5m, chiều dài 20m từ trước mặt đường Quốc lộ 20 kéo thẳng ra phía sau. Do đất bị chéo, không vuông góc với quốc lộ 20 nên bà Nguyễn Thị Q là họ hàng với ông có cho dịch sang đất của bà Q theo hướng Tây Bắc 1m ngang phía đuôi đất chạy dọc theo đất lên phía giáp đường quốc lộ là 5m (thành 5m2). Ông đề nghị sửa một phần án sơ thẩm theo hướng công nhận ông được quyền sử dụng 5m2 đất, không hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ095100 thuộc thửa đất số 91, tờ bản đồ số 31 do UBND huyện Đ cấp cho bà Nguyễn Thị C ngày 12/5/2004.

Luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị đơn và bị đơn trình bày: Không đồng ý với ý kiến của nguyên đơn, vì đất của bà Q cách nhà ông X bởi nhà của ông L, không có giáp ranh với phần đất đang tranh chấp; việc ông X nói 5m2 là của bà Q cho không có chứng cứ gì để chứng minh. Năm 2007 bà H phát hiện ông X làm nhà lấn chiếm sang phần đất 5m2 đất của bà, vì vậy bà đã làm đơn yêu cầu UBND thị trấn Đ1 giải quyết và ông X đã chủ động đập nhà trả lại phần đất đã lấn chiếm cho bà. Từ đó về sau giữa bà và ông X không có tranh chấp gì. Đến năm 2017, bà làm nhà sát với nhà ông X trên phần đất của bà, nhưng ông X cho rằng bà lấn chiếm sang phần đất của ông X. Bà khẳng định việc bà xây nhà là đúng trên phần diện tích đất của bà được mẹ bà là Nguyễn Thị L tặng cho và đất mà bà đang sử dụng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AA 190489 do UBND huyện Đ cấp ngày 24/9/2004. Vì vậy, bà không đồng ý trả diện tích đất 5m2 theo yêu cầu ông X, bà yêu cầu Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ095100 thửa đất số 91, tờ bản đồ số 31 mang tên Nguyễn Thị C do UBND huyện Đ cấp ngày 12/5/2004 đối với phần diện tích đất 5m2 tranh chấp.

Theo văn bản trình bày của Ủy ban nhân dân huyện Đ có trong hồ sơ vụ án thì: Thửa đất số 482 tờ bản đồ số 31 bộ bản đồ địa chính thị trấn Đ1 (theo họa đồ lô đất chuyển nhượng quyền sử dụng đất kèm theo hợp đồng số 1004/CN thiết lập ngày 20/10/2004) đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Phan Thị H và thửa đất số 91 tờ bản đồ số 31 bộ bản đồ địa chính thị trấn Đ1 (theo họa đồ lô đất xin nộp tiền sử dụng đất kèm theo Quyết định số 373/QĐ- UBND ngày 12/05/2004 của UBND huyện Đ) đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ bà Nguyễn Thị C bị chồng một phần diện tích 5m2. Nguyên nhân của việc cấp chồng là do trong quá trình thiết lập hồ sơ, thẩm tra hồ sơ năm 2004 cán bộ thụ lý giải quyết hồ sơ không kiểm tra hồ sơ, rà soát thực địa, xác nhận ranh giới của các chủ sử dụng đất liền kề. Phần diện tích 5m2 cấp chồng hiện tại bà Phan Thị H đã xây dựng nhà (theo họa đồ trích đo thửa đất theo hiện trạng sử dụng đất do Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Đ lập ngày 21/6/2018).

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Ủy ban nhân dân huyện Đ2 xác định có sự cấp chồng diện tích 5m2, thửa 91, 92 do cán bộ địa chính không đối soát đề nghị Hội đồng xét xử xem xét và giải quyết vụ án theo quy định.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh phát biểu về việc chấp hành pháp luật của Hội đồng xét xử, quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án, qua đối chiếu với lời khai của các bên đương sự về nguồn gốc đất, hiện trạng sử dụng đất cho thấy:

Tại “Đơn xin chuyển nhượng hoa màu” ngày 25/5/1993 (BL 204) thì ông Phan Đ (cha của bà H)sang nhượng cho bà C hoa màu trên mảnh đất có tứ cận: Đông giáp ông Phan Đ, Tây giáp ông L, Nam giáp quốc lộ 20. Chiều rộng 5m, chiều dài từ quốc lộ 20 về phía sau là 20m, diện tích 100m2. Căn cứ các họa đồ đo vẽ các thửa đất của bà C, bà H và các thửa liên quan (BL 185, 186, 189) thể hiện: nhìn từ hướng đông sang tây, theo chiều đi từ Đ3 xuống thì thửa đất số của 92 của bà H đầu tiên, tiếp đến là thửa số 91 của bà C và đến các thửa đất 90 của ông L, thửa của bà Q.

Tại phiên tòa, ông X cũng thừa nhận, diện tích đất đang sử dụng có tứ cận như các tài liệu trên. Đất ông X giáp đất ông L chứ không giáp đất bà Q, ranh giới giữa đất ông với ông L là một đường thẳng, không có bị chéo. Ông L không thừa nhận có việc lùi đất cho bà Q để bà nhường 5m2 cho ông X. Như vậy, có thể khẳng định không có việc bà Q cho ông X 5m2 đt tranh chấp nói trên mà đây là phần đất của bà H đang sử dụng, phù hợp với văn bản trả lời của Ủy ban nhân dân huyện Đ là do sai sót của cán bộ địa chính nên đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà C, ông X chồng lấn 5m2 là đất của bà H.

Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát, sửa bản án sơ thẩm theo hướng bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, ý kiến của các bên đương sự. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị đơn, kháng nghị của Viện kiểm sát trong thời hạn luật định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

Xét Đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị C được Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng nhận ngày 08/5/2019 là quá hạn tính từ ngày xét xử sơ thẩm, bà C đã ủy quyền tham gia tố tụng cho ông X tham gia phiên tòa sơ thẩm. Nên kháng cáo của bà C không hợp lệ, không chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét kháng cáo của bị đơn, người có quyền, nghĩa vụ liên quan và kháng nghị của Viện kiểm sát:

Ông X, bà C khởi kiện yêu cầu bà H trả lại 5m2 đt lấn chiếm và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bà Phan Thị H. Qua xem xét, đánh giá các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Ngun gốc đất hiện tranh chấp là do năm 1992 vợ chồng ông X, bà C mua của ông Phan Đ (cha của bà H). Tại “Đơn xin chuyển nhượng hoa màu” ngày 25/5/1993 (BL 204) thì ông Phan Đ (cha của bà H) sang nhượng cho bà C hoa màu trên mảnh đất có tứ cận: Đông giáp ông Phan Đ, Tây giáp ông L, Nam giáp quốc lộ 20. Chiều rộng 5m, chiều dài từ quốc lộ 20 về phía sau là 20m, diện tích 100m2. Căn cứ các họa đồ đo vẽ các thửa đất của bà C, bà H và các thửa liên quan ông L, bà Q (BL 185, 186, 189) thể hiện: nhìn từ hướng đông sang tây, theo chiều đi từ Đ3 xuống thì thửa đất số của 92 của bà H đầu tiên, tiếp đến là thửa số 91 của bà C và đến các thửa đất 90 của ông L, thửa của bà Q. Tại phiên tòa, ông X cũng thừa nhận, diện tích đất đang sử dụng có tứ cận như các tài liệu trên.

Tại các họa đồ đo vẽ, biên bản thẩm định và các tài liệu do Ủy ban nhân dân huyện Đ cung cấp, cho thấy: Đất ông X, bà C giáp đất ông L chứ không giáp đất bà Q, ranh giới giữa đất ông với ông L là một đường thẳng, không có bị chéo. Ông L không thừa nhận có việc lùi đất cho bà Q để bà nhường 5m2 cho ông X. Như vậy, có thể khẳng định không có việc bà Q cho ông X 5m2 đất tranh chấp nói trên mà đây là phần đất của bà H đang sử dụng, phù hợp với văn bản trả lời của Ủy ban nhân dân huyện Đ là do sai sót của cán bộ địa chính nên đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà C, ông X chồng lấn 5m2 là đất của bà H.

Mặt khác, xét thực trạng sử dụng 5m2 đt tranh chấp nói trên, cho thấy: Năm 2007 bà H phát hiện ông X làm nhà lấn chiếm sang phần đất của bà vì vậy bà đã làm đơn yêu cầu UBND thị trấn Đ1 giải quyết và ông X đã chủ động đập nhà trả lại phần đất đã lấn chiếm cho bà. Từ đó về sau giữa bà và ông X không có tranh chấp gì.

Bên cạnh đó, theo ý kiến trình bày của Ủy ban nhân dân huyện Đ ngày 12/10/2018 thì thửa đất số 482 tờ bản đồ số 31 bộ bản đồ địa chính thị trấn Đ1 (theo họa đồ lô đất chuyển nhượng quyền sử dụng đất kèm theo hợp đồng số 1004/CN thiết lập ngày 20/10/2004) đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Phan Thị H và thửa đất số 91 tờ bản đồ số 31 bộ bản đồ địa chính thị trấn Đ1 (theo họa đồ lô đất xin nộp tiền sử dụng đất kèm theo Quyết định số 373/QĐ-UBND ngày 12/05/2004 của UBND huyện Đ đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ bà Nguyễn Thị C bị chồng một phần diện tích 5m2 của bà H. Nguyên nhân của việc cấp chồng là do trong quá trình thiết lập hồ sơ, thẩm tra hồ sơ năm 2004, cán bộ thụ lý giải quyết hồ sơ không kiểm tra hồ sơ, rà soát thực địa, xác nhận ranh giới của các chủ sử dụng đất liền kề. Phần diện tích 5m2 cấp chồng hiện tại bà Phan Thị H đã xây dựng nhà (theo họa đồ trích đo thửa đất theo hiện trạng sử dụng đất do Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Đ lập ngày 21/6/2018).

Tòa án cấp sơ thẩm đã cho rằng, vì Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ095100 do UBND huyện Đ cấp ngày 12/5/2004 mang tên hộ bà Nguyễn Thị C được cấp trước và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AA190489 do UBND huyện Đ cấp ngày 24/9/2004 mang tên hộ bà Phan Thị H được cấp sau, nên yêu cầu khởi kiện của ông X, bà C là có căn cứ chấp nhận là có thiếu sót, không xem xét, đánh giá các tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

Từ các nhận định trên, Hội đồng xét xử nhận thấy kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng, kháng cáo của bị đơn là có căn cứ nên chấp nhận, sửa toàn bộ bản án sơ thẩm, theo hướng bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ095100 thuộc thửa 91, tờ bản đồ số 31 do UBND huyện Đ cấp cho bà Nguyễn Thị C ngày 12/5/2004 đối với diện tích 5m2 đất tranh chấp.

Về án phí: Bị đơn không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không được chấp nhận nên buộc nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 38.000.000đồng x 5% = 1.900.000đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 308, khoản 1 Điều 309 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015; áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng và kháng cáo của bị đơn bà Phan Thị H, người có quyền, nghĩa vụ liên quan ông Võ Văn S.

1/ Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn X, bà Trần Thị Của về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.

Xác định diện tích 5m2 đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng của bà Phan Thị H. Hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ095100 thuộc thửa đất số 91, tờ bản đồ số 31 do UBND huyện Đ cấp cho bà Nguyễn Thị C ngày 12/5/2004 đối với diện tích 5m2.

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị C, ông Nguyễn Văn X yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AA 190489 do UBND huyện Đ cấp ngày 24/9/2004 cho hộ bà Phan Thị H.

Các đương sự được quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền đăng ký biến động để được cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đúng với hiện trạng sử dụng.

2/ Về chi phí tố tụng: Buộc nguyên đơn là ông Nguyễn Văn X và bà Nguyễn Thị C phải chịu chi phí tố tụng với số tiền 8.800.000 đồng. Ông X, bà C đã nộp tạm ứng và đã chi xong.

3/ Về án phí: Buộc nguyên đơn là ông Nguyễn Văn X và bà Nguyễn Thị C phải chịu 1.900.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, bà C phải chịu 300.000 đồng án phí phúc thẩm. Được khấu trừ vào số tiền 2.500.000 đồng ông X đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0007585 ngày 02/11/2017 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng và 300.000 đồng bà C đã nộp theo biên lai thu số 0014791 ngày 13/5/2019 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Lâm Đồng. Ông X, bà C được nhận lại 600.000 đồng.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 472/2019/DS-PT ngày 10/10/2019 về tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Số hiệu:472/2019/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 10/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về