Bản án 47/2021/HNGĐ-ST ngày 14/06/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 47/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/06/2021 VỀ LY HÔN

Hôm nay, ngày 14/6/2021 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số: 28/2021/TLST – HNGĐ, ngày 12/01/2021 về việc “Ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2021/HNGĐ-QĐ ngày 25 tháng 5 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đào Thị Ánh D, sinh năm 1995; cư trú tại: 124/5 thôn T, xã T, thành phố Đ, tỉnh L, có mặt.

- Bị đơn: Anh Thái Bá Đ, sinh năm 1990; cư trú tại: 184/4 T 2, xã Xuân T , thành phố Đ, tỉnh L, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo yêu cầu khởi kiện và trong quá trình xét xử nguyên đơn chị Đào Thị Ánh D trình bày:

Chị và anh Thái Bá Đ là vợ chồng có đăng ký kết hôn số: 45/TLKH ngày 25 tháng 8 năm 2017, tại Ủy ban nhân dân xã Xuân Trường, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, có tổ chức đám cưới, hôn nhân tự nguyện. Sau khi kết hôn vợ chồng sống chung với gia đình nhà chồng tại 184/4 Trường Xuân 2, xã Xuân Trường, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, cuộc sống chung hạnh phúc đến khoảng tháng 6 năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh Hiếu không chăm lo cho gia đình, chị sinh con nhỏ không đi làm được, mọi sinh hoạt trong gia đình đều do bố mẹ chồng chu cấp, từ đó vợ chồng mâu thuẫn hay cãi nhau, chị đã về lại nhà cha mẹ đẻ sống từ tháng 6 năm 2020 đến nay. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu được ly hôn với anh Đ.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên là Thái Ngọc T, sinh ngày 02/12/2017, hiện nay cháu đang sống với anh Đ và cháu Thái Bá H, sinh ngày 27/02/2020, hiện chị đang trực tiếp nuôi dưỡng. Ly hôn chị đồng ý giao con chung tên Thái Ngọc T cho anh Đ nuôi dưỡng, chị trực tiếp nuôi dưỡng con Thái Bá H, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết; về nợ chung: Vợ chồng không nợ ai.

Tòa án đã tống Đ giấy triệu tập nhiều lần nhưng anh Đ không có mặt nên vụ án không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa chị D vẫn giữ nguyên yêu cầu, anh Đ có đơn yêu cầu hòa giải, xét xử vắng mặt, căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án xét xử vụ án theo thủ tục chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, qua kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Chị D có đơn yêu cầu tòa giải quyết ly hôn anh Thái Bá Đ. Do vậy xác định quan hệ tranh chấp là “Ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Thẩm quyền giải quyết vụ án: Bị đơn có hộ khẩu, hiện đang cư trú tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.

Xét yêu cầu của nguyên đơn thấy rằng:

[3]. Chị Đào Thị Ánh D và anh Thái Bá Đ kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn nên quan hệ hôn nhân giữa chị D anh Đ là hợp pháp.

[4]. Trong quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến khoảng tháng 6 năm 2020 thì phát sinh mẫu thuẫn nguyên nhân là vợ chồng không hòa hợp, không còn thương yêu, nhường nhịn nhau, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, chị D đã về nhà cha mẹ đẻ sống từ tháng 6 năm 2020 đến nay, vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc đến nhau.

[5]. Đối với anh Đ: Trong quá trình giải quyết vụ án, tòa án đã nhiều lần tống Đ giấy triệu tập nhưng anh không đến Tòa làm việc trình bày quan điểm của mình về yêu cầu ly hôn của chị D. Ngày 17/5/2021 anh có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, trong đơn trình bày; đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị D và yêu cầu xét xử vắng mặt.

Về con chung anh xác nhận; vợ chồng có 02 con chung tên là Thái Ngọc Trâm, sinh ngày 02/12/2017, và cháu Thái Bá Hùng, sinh ngày 27/02/2020, ly hôn anh có nguện vọng trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung.

[6]. Xét mâu thuẫn giữa chị D anh Đ đã trầm trọng, nếu có kéo dài thì mục đích hôn nhân cũng không Đ được, do vậy chấp nhận yêu cầu của chị D, xử chị D anh Đ ly hôn là có cơ sở.

[7]. Về con chung:

Vợ chồng có 02 con chung tên là Thái Ngọc T, sinh ngày 02/12/2017, và cháu Thái Bá H, sinh ngày 27/02/2020. Xét: Cháu Thái Ngọc T, sinh ngày 02/12/2017, đã hơn 36 tháng tuổi, hiện nay cháu đang sống với anh Đ, anh Đ cũng có điều kiện và có nguyện vọng nuôi con, chị D cũng đồng ý và để ổn định cho các cháu nên giao cháu Thái Ngọc T cho anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng.

Đối với cháu Thái Bá H, sinh ngày 27/02/2020, hiện nay cháu đang ở với chị D, cháu đang còn nhỏ dưới 36 tháng tuổi, chị D có đủ điều kiện nuôi con nên giao chị D trực tiếp nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con chị D, anh Đ không yêu cầu nên không xem xét.

[8]. Về tài sản chung: Chị D, anh Đ không yêu cầu tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét; về nợ chung vợ chồng không nợ ai.

[9] Về án phí: Chị D phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 28, 35, 147, 217 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ vào Điều 51, 56, 58 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của chị Đào Thị Ánh D xin ly hôn anh Thái Bá Đ. Chị Đào Thị Ánh D và anh Thái Bá Đ được ly hôn.

2. Về con chung: Giao con chung tên là Thái Ngọc T, sinh ngày 02/12/2017, cho anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng. Giao con chung tên Thái Bá H, sinh ngày 27/02/2020 cho chị Đào Thị Ánh D trực tiếp nuôi dưỡng không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Việc chăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn và thay đổi nuôi con được thực hiện theo quy định của luật hôn nhân và gia đình.

3. Về án phí:

Chị Đào Thị Ánh D phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân sơ thẩm được trừ vào số tiền 300.000đ đã tạm nộp theo biên lai số AA/2017/0003507 ngày 11/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt, chị D đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, chị D được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Riêng anh Đ vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2021/HNGĐ-ST ngày 14/06/2021 về ly hôn

Số hiệu:47/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về