Bản án 47/2018/HNGĐ-ST ngày 26/06/2018 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 47/2018/HNGĐ-ST NGÀY 26/06/2017 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 26 tháng 6 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 294/2018/TLST-HNGĐ ngày12 tháng 4 năm 2018 về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 6 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Phan Hữu Hoàng P, sinh năm 1984;

Địa chỉ: Số X, Hoàng Hoa T, phường Y, thành phố L, tỉnh Lâm Đồng.

- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Tuyết N,, sinh năm 1985;

Địa chỉ: Số V, Quốc lộ B, ấp P, xã B, huyện T, tỉnh Tây Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 12 tháng 4 năm 2018 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn anh Phan Hữu Hoàng P trình bày:

Anh và chị N chung sống với nhau vào năm 2013, có đăng ký kết hôn tại UBND xã  B, huyện  T, tỉnh Tây Ninh. Anh chị sống hạnh phúc được khoảng 3 tháng thì phát sinh mâu thuẫn kéo dài cho đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân: Do bất đồng ý kiến, sống chung không hợp, thường xuyên gây gổ, anh chị sống ly thân từ năm 2017 đến nay. Nay anh thấy tình cảm vợ chồng không còn, anh xin ly hôn với chị N.

Về con chung: Có 01 người Phan Nguyễn Kim N, sinh ngày 26/9/2014, hiện con đang sống chung chị N, anh đồng ý để con cho chị N tiếp tục nuôi dưỡng, anh cấp dưỡng nuôi con một tháng 1.000.000 đồng cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung; Nợ chung: Không có.

Chị Nguyễn Thị Tuyết N trình bày tại biên bản ngày 16/5/2018:

Chị và anh P chung sống với nhau vào năm 2013, có đăng ký kết hôn tại UBND xã  B, huyện T, tỉnh Tây Ninh. Anh chị sống hạnh phúc đến tháng 3 năm 2017 thì anh P tự cắt liên lạc với chị, do anh P đi làm ở Thành phố Hồ Chí Minh, còn chị thì ở nhà, 3 đến 4 tháng hoặc nửa năm anh P về thăm một lần, mỗi lần chị nói ra thì anh P bắt bẻ, chị và anh p sống ly thân từ tháng 3/2017 cho đến nay, anh P xin ly hôn, chị đồng ý ly hôn nhưng chị không đến Tòa án.

Về con chung: Có 01 người Phan Nguyễn Kim N, sinh ngày 26/9/2014, hiện con đang sống chung với chị, chị yêu cầu nuôi con, chị đồng ý để anh P cấp dưỡng nuôi con một tháng 1.000.000 đồng.

Về tài sản chung; Nợ chung: Không có.

Tại phiên tòa đại diện VKSND huyện Châu Thành trình bày việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và HĐXX: Thẩm phán thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ một cách khách quan, cụ thể, rõ ràng, chuyển hồ sơ và các văn bản tố tụng cho Viện kiểm sát đúng thời gian quy định; Hội đồng xét xử thực hiện đúng trình tự, thủ tục đối với phiên tòa sơ thẩm dân sự.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của những người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa các đương sự đều thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của anh Phan Hữu Hoàng P xử cho anh P và chị Nguyễn Thị Tuyết N được ly hôn. Về con chung chị N tiếp tục trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con Phan Nguyễn Kim N, sinh ngày 26/9/2014. Anh P cấp dưỡng nuôi con một tháng 1.000.000 đồng cho đến khi con đủ 18 tuổi. Tài sản chung, nợ chung không có nên không đặt ra giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, xét thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị Tuyết N có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015. Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị N.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Phan Hữu Hoàng P và chị Nguyễn Thị Tuyết N chung sống với nhau vào năm 2013 có đăng ký kết hôn, đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ.

Xét về mâu thuẫn thấy rằng: Anh P và chị N chung sống với nhau vào năm 2013. Anh chị sống hạnh phúc đến đầu năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng ý kiến, sống chung không hợp, thường xuyên gây gỗ, anh chị sống ly thân từ năm 2017 đến nay, anh P xác định tình cảm vợ chồng không còn anh xin ly hôn. Chị N đồng ý ly hôn. Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa anh P và chị N đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của anh Phan Hữu Hòang P xử cho anh và chị N được ly hôn.

[2] Về con chung: Chị N tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, con tên Phan Nguyễn Kim N, sinh ngày 26/9/2014. Anh P cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng (Một triệu đồng). Bắt đầu cấp dưỡng từ ngày 30/7/2018 cho đến khi con đủ 18 tuổi.

[3] Về tài sản chung; Nợ chung: anh chị xác định không có nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[4] Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh đề nghị: Chấp nhận yêu cầu của anh Phan Hữu Hoàng P xử cho anh P và chị Nguyễn Thị Tuyết N được ly hôn. Về con chung chị N tiếp tục trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con Phan Nguyễn Kim N, sinh ngày 26/9/2014. Anh P cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi con đủ 18 tuổi. Tài sản chung, nợ chung: không có nên không đặt ra giải quyết. Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị này phù hợp.

[5] Về án phí: Anh Phan Hữu Hoàng P phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 56, 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của anh Phan Hữu Hoàng P xử cho anh và chị Nguyễn Thị Tuyết N được ly hôn.

2. Về con chung: Chị N tiếp tục trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con tên Phan Nguyễn Kim N, sinh ngày 26/9/2014. Anh P cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng (Một triệu đồng). Bắt đầu cấp dưỡng từ ngày 30/7/2018 cho đến khi con đủ 18 tuổi. Không ai được ngăn cản anh P quyền thăm nom con chung sau khi ly hôn.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoàn tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

3. Tài sản chung; Nợ chung: Anh P, chị N khai không có.

4. Về án phí: Anh Phan Hữu Hoàng P phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm và 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm; nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0019050 ngày 12 tháng 4 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành. Anh P còn phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Các đương sự được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp  bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

267
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2018/HNGĐ-ST ngày 26/06/2018 về xin ly hôn

Số hiệu:47/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về