Bản án 47/2018/HNGĐ-ST ngày 10/08/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 47/2018/HNGĐ-ST NGÀY 10/08/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 10/8/2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố B mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 110/2018/TLST- HNGĐ ngày 02/4/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 49/2018/QĐXXST – HNGĐ ngày 03/7/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số37/2018/QĐST-HNGĐ ngày 01/8/2018 giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Chị Lê Thị H, sinh năm 1993 (Có mặt).

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1993 (Vắng mặt). Cùng HKTT: Thôn L, xã T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chịLê Thị H trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn L kết hôn ngày 07 tháng 10 năm 2013, đăng ký tại UBND xã T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang. Chị và anh L kết hôn là hoàn toàn tự nguyện và được tự do tìm hiểu trước khi kết hôn, đã được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo nghi lễ truyền thống. Sau khi kết hôn chị và anh L về chung sống với nhau ngay. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Bắt đầu đến đầu năm 2016, thì cuộc sống vợ chồng nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, anh L thường xuyên chơi bời, không chịu làm ăn, không quan tâm gì đến vợ con, chị có khuyên bảo anh L nhiều lần nhưng anh L vẫn vậy, không thay đổi được. Từ đó, vợ chồng thường xuyên xảy ra xích mích, cuộc sống luôn căng thẳng. Đến tháng 4/2017, khi không thể chịu đựng được nữa thì vợ chồng ly thân, chị về nhà mẹ đẻ ở từ đó đến nay. Nay chị xác định không còn tình cảm vợ chồng với anh L, chị đề nghị Tòa án cho chị được ly hôn với anh L.

- Về con chung: Chị và anh L có 01 con chung là Nguyễn Lê Anh T, sinh ngày 08/8/2012. Chị yêu cầu Tòa án giải quyết về nuôi con chung, chị đề nghị Tòa án giao cho anh L trực tiếp nuôi dưỡng cháu T. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con, chị và anh L tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: Chị xác nhận vợ chồng không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại Biên bản xác minh ngày 31/5/2018, đại diện chính quyền đại phương Thôn L, xã T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang cung cấp: Chị H và anh L là vợ chồng, hiện vẫn đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa phương. Trong quá trình chung sống tại địa phương, vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn gì không thì địa phương không rõ. Địa phương chỉ biết cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, hiện tại vợ chồng đã ly thân, chị H không còn chung sống cùng anh L tại địa phương.

Đối với bị đơn là anh Nguyễn Văn L, trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã nhiều lần tống đạt giấy báo làm việc, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hoà giải cũng như quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên toà theo đúng quy định của pháp luật nhưng anh L vẫn vắng mặt, không có lý do và không có quan điểm thể hiện việc giải quyết vụ án.

Tại phiên tòa hôm nay, chị H rút yêu cầu khởi kiện về việc giải quyết nuôi con chung, giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với anh L.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng các quyền và nghĩa vụ quy định, Bị đơn không chấp hành đúng các nghĩa vụ theo quy định như không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án, không tham gia các phiên họp tiếp cận, kiểm tra, công khai chứng cứ vào hòa giải, không tham gia các phiên tòa.

- Về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết vụ án nhưsau:

+ Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị H được ly hôn anh Nguyễn Văn L.

+ Về con chung: Đình chỉ đối với yêu cầu về con chung của chị H.

+ Về án phí: Chị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Xét yêu cầu khởi kiện của chị H thì thấy đây là quan hệ tranh chấp hôn nhân gia đình về ly hôn, tranh chấp nuôi con thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố B theo khoản 1 Điều 28, điểm a, khoản1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn được triệu tập tham gia phiên tòa hai lần hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử giải quyết vụ án vắng mặt bị đơn theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh L kết hôn ngày 07/10/2013 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, được tự do tìm hiểu trước khi kết hôn và đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang, được cấp giấy chứng nhận kết hôn nên xác định là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, qua xác minh tại địa phương thì thấy cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, vợ chồng đã ly thân từ năm 2017, hiện không còn chung sống cùng với nhau. Bản thân chị H cũng xác nhận không còn tình cảm vợ chồng với anh L. Mặt khác, Toà án đã triệu tập anh L lên làm việc, hòa giải đoàn tụ vợ chồng nhiều lần nhưng anh đều vắng mặt, không có lý do chứng tỏ anh L không còn tha thiết níu giữ quan hệ hôn nhân với chị H. Do đó, Hội đồng xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận cho chị H ly hôn anh L là phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Trong đơn khởi kiện chị H yêu cầu giải quyết về con chung được Tòa án thụ lý xem xét giải quyết, nhưng tại phiên tòa chị H tự nguyện rút yêu cầu này nên cần áp dụng Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự, đình chỉ đối với yêu cầu này của chị H.

[4] Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: do các đương sự không yêucầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Khoản 2 Điều 227; Khoản 3 Điều 228; Điều 244; Điều271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị H được ly hôn đối với anh NguyễnVăn L.

2. Về con chung: Đình chỉ đối với yêu cầu về con chung của chị Lê Thị H.

3. Về án phí: Chị Lê Thị H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố B theo biên lai số AA/2016/0000018 ngày 30/3/2018. Xác nhận chị H đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Chị H có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Anh L có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7; 7a; 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2018/HNGĐ-ST ngày 10/08/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:47/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về