Bản án 462/2019/HS-PT ngày 15/08/2019 về tội chống người thi hành công vụ và gây rối trật tự phiên tòa

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 462/2019/HS-PT NGÀY 15/08/2019 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ VÀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ PHIÊN TÒA

Ngày 15 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 289/2019/TLPT-HS ngày 05 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo Nguyễn Văn H. Do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn H đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 141/2019/HS-ST ngày 26-4-2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Văn H, giới tính: nam; sinh năm 1978 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký HKTT: 165B/6B ấp 2, xã B1, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 01/12; con của ông Nguyễn Văn T (chết) và con của bà Trần Thị T1; hoàn cảnh gia đình: bị cáo có vợ và 04 người con (con lớn nhất sinh năm 1999, con nhỏ nhất sinh năm 2011); tiền án: không; tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/7/2018 (có mặt).

(Trong vụ án còn có bị cáo Nguyễn Văn BC1 có kháng cáo nhưng đã rút kháng cáo; bị cáo Lê Thị Ngọc BC2 không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không liên quan đến kháng cáo, nên Tòa án không triệu tập đến phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 08 giờ ngày 23/7/2018, tại Phòng xử án Số 1 của Tòa án nhân dân huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh diễn ra phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án dân sự tranh chấp lối đi giữa nguyên đơn là Nguyễn Văn N, bị đơn là Nguyễn Văn H và Trần Thị E. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự này gồm có: bà Trần Thị N1 (bà ngoại của H), Trần Thị T1 (mẹ của H), Đỗ Kim L1 (vợ của H), Nguyễn Thị Kim C (chị ruột của H), Nguyễn Văn BC1 và Nguyễn Văn K2 (em ruột của H), Nguyễn Phúc K1 (con của H), Lê Bá H (anh họ của H), Lê Thị Ngọc L2 (chị họ của H), Lê Thị Ngọc BC2 (chị họ của H), Trần Thị G (dì ruột của H) và Lê Thanh X (anh họ của H).

Những người tiến hành tố tụng tại phiên tòa dân sự sơ thẩm ngày 23/7/2018 gồm có: Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa bà Lê Thị Hồng V; các Hội thẩm nhân dân gồm bà Nguyễn Thị Thúy O và bà Nguyễn Thị A; Thư ký phiên tòa là ông Nguyễn Tấn V1 và Kiểm sát viên là ông Nguyễn Văn L. Ngoài ra, lực lượng bảo đảm an ninh trật tự tại phiên tòa xét xử vụ án dân sự này theo sự phân công của Trưởng công an thị trấn B2, huyện B, gồm có: Phó Trưởng Công an thị trấn B2 là Trung tá Phan Minh U, các Cảnh sát khu vực là Thiếu tá Nguyễn Anh Q, Đại úy Nguyễn Thanh Y, Trung úy Lê Tấn P và Đại úy Nguyễn Công H1 (phân công theo Công văn của Tòa án nhân dân huyện B về việc yêu cầu cử lực lượng bảo vệ phiên tòa).

Phiên tòa diễn ra bình thường, đến khoảng 12 giờ cùng ngày 23/7/2018, Chủ tọa phiên tòa bà Lê Thị Hồng V, thay mặt Hội đồng xét xử công bố bản án (tuyên án). Trong lúc bà V đang tuyên án, H không đồng ý với nội dung nên giơ tay xin phát biểu ý kiến, nhưng chủ tọa vẫn tiếp tục tuyên án, H để tay xuống, rồi bỏ dép ra và bước sang phải một bước. Ngay khi Chủ tọa vừa đọc xong bản án và đang tuyên bố bế mạc phiên tòa, Nguyễn Văn H giơ tay lên phản đối, chạy lên phía bàn của Kiểm sát viên, rồi H dùng tay phải đánh vào mặt Kiểm sát viên Nguyễn Văn L 03 cái làm vỡ mắt kính và gây ra vết xây xát da ngay vùng mũi của ông L (qua giám định có tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 01%). Và lúc này, Hội đồng xét xử chạy ra ngoài phòng xử án bằng cửa sau (của dành riêng cho những người tiên hàng tố tụng vào ra phòng xử). Tiếp sau đó lực lượng công an đang làm nhiệm vụ bảo vệ phiên tòa ngăn cản, khống chế và đưa H ra khỏi phòng xử án.

Sau khi mọi người ra khỏi khu vực xử án, người nhà của H la lối, gây ồn ào tại trước sảnh và sân của Tòa án nhân dân huyện B. Khi đó có anh Lê Văn P1 (là phóng viên Báo Người lao động) đang đứng tại sảnh của Tòa án dùng điện thoại quay lại sự việc thì bị bà Đỗ Kim L1, Lê Thị Ngọc L2, Lê Thị Ngọc BC2 xông đến giành lấy điện thoại của anh P1 với mục đích không cho quay phim và xóa 2 đoạn ghi âm, ghi hình và khi đó bảo vệ của Tòa án liền đi đến ngăn cản thì xảy ra xô xát với bà Đỗ Kim L1. Thấy vậy, Nguyễn Văn H xông đến để đánh bảo vệ nhưng được Trung tá Phan Minh U và lực lượng công an bảo vệ phiên tòa ngăn cản lại, Nguyễn Văn H dùng chân đạp 01 lần trúng vào đùi và tay Trung tá Phan Minh U, rồi H xông đến chỗ bà Đỗ Kim L1 nhưng bị lực lượng công an khống chế lại. Lúc này, Lê Thị Ngọc BC2 nhặt được cây gậy chống của bà Trần Thị T1 làm rơi dưới đất, rồi dùng gậy này đánh 04 cái từ trên xuống vào lực lượng công an để giải vây cho H, làm trúng vào người ông U (02 cái trúng vào vai phải, 02 cái trúng vào mũ bảo hiểm). Lúc này, Nguyễn Văn BC1 chạy đến để hỗ trợ cho H và Đỗ Kim L1 nhưng Thiếu tá Nguyễn Anh Q ngăn cản lại và BC1 dùng tay phải đánh vào mặt Thiếu tá Q 01 cái thì bị lực lượng công an khống chế.

Sau đó, H và BC1 bị lực lượng công an khống chế, nhưng do H và BC1 bị mệt nên được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện huyện B, còn những người có liên quan được mời về trụ sở công an thị trấn B2, huyện B để làm việc.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 592/TgT.18 ngày 31/7/2018 của Trung tâm pháp y Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh kết luận về thương tích đối với ông Nguyễn Văn L như sau:

“- Dấu hiệu chính qua giám định: chấn thương phần mềm gây sưng đau vùng trán, vùng thái dương trái, xây xát da vùng mũi, hiện còn:

+ Nề nhẹ, ấn đau vùng thái dương mặt trái, nhiều khả năng do vật tày tác động.

+ Một vết tăng sắc tố và xây xát da mờ vùng cạnh phải và sống mũi phải. Thương tích do vật tày có cạnh hoặc vật có cạnh sắc gây ra.

+ Tình trạng ổn định.

- Theo Thông tư số 20/2014/TT-BYT ngày 12/6/2014 của Bộ Y tế quy định tỉ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần: Tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 01% (một phần trăm).

Về phía Trung tá Phan Minh U và Thiếu tá Nguyễn Anh Q có đơn xin từ chối giám định tỉ lệ thương tật.

Tại Cáo trạng số 67/CT-VKS-P2 ngày 12/02/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố đối với bị can:

Nguyễn Văn H về tội “Gây rối trật tự phiên tòa” theo điểm b khoản 2 Điều 391 Bộ luật Hình sự năm 2015 và tội “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 330 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Nguyễn Văn BC1 về tội “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 330 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

3 Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 141/2019/HS-ST ngày 26 tháng 4 năm 2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 391; khoản 1 Điều 330; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017)

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Gây rối trật tự phiên tòa” và phạm tội “Chống người thi hành công vụ”; bị cáo Nguyễn Văn BC1 phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.

Xử phạt: Nguyễn Văn H 01 (một) năm tù về tội “Gây rối trật tự phiên tòa” và 01 (một) năm tù về tội “Chống người thi hành công vụ”. Tổng hợp hình phạt, bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/7/2018.

Xử phạt: Nguyễn Văn BC1 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/7/2018.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt của bị cáo Lê Thị Ngọc BC2, về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 26/4/2019, bị cáo Nguyễn Văn H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 06/5/2019, bị cáo Nguyễn Văn BC1 có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 01/7/2019 bị cáo Nguyễn Văn BC1 có đơn xin rút đơn kháng cáo.

Ngày 18/7/2019 Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh ra thông báo số 27/2019/TB-TA về việc rút kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn BC1.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Nguyễn Văn H, thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo và tội danh như nội dung của bản án sơ thẩm đã xử; tuy nhiên, vẫn giữ yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do: Gia đình bị cáo có người có công với cách mạng; bị cáo bức xúc với bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện B xử không đúng, có một số bài báo đăng nói bị cáo là chí phèo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không đưa ra được những tình tiết giảm nhẹ gì mới nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo H. Đối với bị cáo BC1 đã có đơn rút 4 kháng cáo trước khi mở phiên tòa và Tòa án cấp phúc thẩm ra thông báo việc rút kháng cáo nên các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo kháng nghị phát sinh hiệu lực pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Văn H đã thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo như bản án sơ thẩm đã nêu; qua lời khai nhận của bị cáo; lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, các nhân chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử phúc thẩm có đủ cơ sở để xác định như sau:

[2] Vào khoảng 08h00 ngày 23/7/2018, tại Phòng xử số 1 của Tòa án nhân dân huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án tranh chấp lối đi giữa nguyên đơn là Nguyễn Văn N với bị đơn là Nguyễn Văn H và Trần Thị E, và 12 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Những người tiến hành tố tụng tại phiên tòa gồm có: Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa bà Lê Thị Hồng V, Hội thẩm nhân dân bà Nguyễn Thị Thuý O và bà Nguyễn Thị A; thư ký ghi biên bản phiên tòa: ông Nguyễn Tấn V1; Kiểm sát viên ông Nguyễn Văn L. Ngoài ra, lực lượng bảo đảm an ninh trật tự tại phiên tòa gồm có: Trung tá Phan Minh U - Phó trưởng Công an thị trấn B2; cảnh sát khu vực - Thiếu tá Nguyễn Anh Q, Đại uý Nguyễn Thanh Y, Trung uý Lê Tấn P và Đại uý Nguyễn Công H1.

[3] Phiên tòa diễn ra đến khoảng 12h00 cùng ngày 23/7/2018, Chủ toạ phiên tòa thay mặt Hội đồng xét xử công bố bản án (tuyên án). Trong lúc Chủ tọa đang tuyên án, H không đồng ý nên giơ tay xin phát biểu ý kiến nhưng Chủ toạ vẫn tiếp tục tuyên án nên H bỏ tay xuống rồi bỏ dép ra và bước sang phải một bước. Ngay khi Chủ toạ vừa đọc xong bản án và đang tuyên bố bế mạc phiên tòa, giải thích quyền kháng cáo của các đương sự thì H giơ tay phản đối rồi chạy lên phía bàn của của kiểm sát viên, tiếp đó H dung tay phải đánh vào mặt Kiểm sát viên L 03 cái làm vỡ mắt kính của Kiểm sát viên, gây ra vết xây sát da vùng mũi của Kiểm sát viên L (kết quả giám định tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại 0,1%), trong khi những người tham dự phiên tòa và những người tiến hành tố tụng vẫn còn trong phòng xử án.

[4] Sau khi ra khỏi khu vực xử án, người nhà của H la lối, gây ồn ào trước sảnh và sân của Tòa án nhân dân huyện B. Khi thấy bà Đỗ Kim L1, Lê Thị Ngọc L2, Lê Thị Ngọc BC2 xông đến giành lấy điện thoại của anh Lê Văn P1 (Phóng viên) và bị bảo vệ của Tòa án nhân dân huyện B ngăn cản xảy ra xô xát với bà Kim L1, thì H chạy đến đánh bảo vệ nhưng bị lực lượng công an thị trấn B2 5 ngăn cản, lúc này H có hành vi dùng chân đạp vào đùi và tay Trung tá U rồi H xông đến chỗ bà Kim L1 nhưng bị lực lượng công an khống chế lại.

[5] Hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự và sự tôn nghiêm của Tòa án, đến sự an toàn trong hoạt động xét xử của Tòa án và xâm phạm đến việc thực hiện nhiệm vụ của những người đang thi hành công vụ. Bản án của Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Gây rối trật tự phiên tòa” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 391 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và phạm tội “Chống người thi hành công vụ” theo quy định khoản 1 Điều 330 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[6] Đối với kháng cáo của bị cáo H xin giảm nhẹ hình phạt.

Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã xem xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, bị cáo có ông Nội là liệt sĩ, từ đó, xử phạt bị cáo 01 (một) năm tù đối với tội gây rối trật tự phiên tòa và 01 (một) năm tù đối với tội chống người thi hành công vụ. Tổng hợp hình phạt, bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 02 (hai) năm tù là tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không đưa ra được tình tiết giảm nhẹ gì mới theo quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo H và giữ nguyên về phần hình phạt đối với bị cáo H của bản án hình sự sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là có căn cứ và đúng pháp luật.

[7] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị phát sinh hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[8] Án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu theo quy định về án phí, lệ phí của Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn H.

Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 141/2019/HS-ST ngày 26 tháng 4 năm 2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Xử:

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 391; khoản 1 Điều 330; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Gây rối trật tự phiên tòa” và phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.

Xử phạt: Nguyễn Văn H 01 (một) năm tù về tội “Gây rối trật tự phiên tòa” và 01 (một) năm tù về tội “Chống người thi hành công vụ”. Tổng hợp hình phạt, bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/7/2018.

Tiếp tục giam bị cáo Nguyễn Văn H để đảm bảo thi hành án.

2. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng).

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

454
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 462/2019/HS-PT ngày 15/08/2019 về tội chống người thi hành công vụ và gây rối trật tự phiên tòa

Số hiệu:462/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về