TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 46/2019/HS-ST NGÀY 24/05/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 24 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 48/2019/TLST-HS ngày 22 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 75/2019/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 5 năm 2019 đối với bị cao:
Họ và tên: Nguyễn Thị H. Tên gọi khác: Không; sinh ngày 21/02/1979. Nơi ĐKHKTT: Xóm 18, xã H1, huyện H, tỉnh Nghệ An. Nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 9/12; con ông: Nguyễn Đình H và bà: Phan Thị S; anh chị em ruột: 03 người; có chồng: Phan Văn S; có 03 con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 20/02/2019 đến ngày 23/02/2019 cho bảo lĩnh. Bị cáo tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.
Người bị hại: Chị A sinh năm 1998. Quốc tịch: Ấn độ. Vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Bị cáo Nguyễn Thị H là nhân viên làm hợp đồng vệ sinh tại Trung tâm thể dục thể thao LX FITNESS có địa chỉ số 4 đường L, thành phố V, Nghệ An. Khoảng 18 giờ chiều ngày 17/02/2019 trong khi làm việc, đi qua phòng của chị A sinh năm 1998. Quốc tịch: Ấn độ, là giáo viên dạy môn Yoga cửa hé mở, không khóa. Lợi dụng sơ hở bị cáo H lẻn vào phòng lục soát lấy 3.000.000đ ở 2 chiếc ví của của chị A. Sau khi bị mất trộm, chị A trình báo Công an. Ngày 20/02/2019 bị cáo H đã đến Cơ quan Công an đầu thú, thừa nhận hành vi phạm tội và nộp lại số tiền đã lấy trộm. Chị A đã nhận lại đủ số tiền và đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo H.
Bản cáo trạng số 61/CT-VKS-P2 ngày 16 tháng 4 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo Nguyễn Thị H về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng quy kết, bị cáo nhận thức được sai lầm, vi phạm pháp luật, hoàn cảnh gia đình khó khăn, con còn nhỏ xin pháp luật khoan hồng, cho cải tạo tại địa phương.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An giữ nguyên nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, phạm tội lần đầu nên cho bị cáo hưởng lượng khoan hồng, cải tạo tại địa phương là đủ. Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51, điều 56 Bộ luật Hình sự đề nghị xử phạt bị cáo H: từ 3 đến 6 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng. Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố các cơ quan và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự theo quy định của Bộ luật TTHS. Bị cáo, người bị hại không có ai có ý kiến, khiếu nại gì Hội đồng xét xử xét thấy các quyết định, hành vi của người tiến hành tố tụng thực hiện đúng quy định.
Chị A sinh năm 1998, Quốc tịch: Ấn độ là người bị hại tại Biên bản ghi lời khai (Bút lục số 63, 64) cung cấp thì chị là giảng viên tự do của Hiệp hội Yoga Ấn Độ đi Việt Nam du lịch và có tham gia dạy một số Trung tâm thể thao ở Hà Nội, Ninh Bình, Nghệ An… sắp tới chị chưa về Ấn Độ mà đi đến các nước Thái Lan, Mianma… không xác định được lịch trình cụ thể nên Tòa án không triệu tập chị đến phiên tòa được. Chị đã nhận lại tài sản đầy đủ, không yêu cầu gì thêm, đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì vậy Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị theo quy định. Vụ án có yếu tố nước ngoài nên thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử.
[2] Về nội dung vụ án: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo H thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng truy tố. Xét lời khai của bị cáo phù hợp các tài liệu chứng cứ đã được thu thập trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở để kết luận bị cáo H lợi dụng sơ hở của chị A đã lấy trộm: 3.000.000đ, đã phạm tội “ Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
[3] Xét tính chất phạm tội, bị cáo H là người có trình độ văn hóa, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Hành vi chiếm đoạt tài sản, xâm phạm quyền sở hữu của người khác đã gây mất trật tự trị an, ảnh hưởng xấu cho hình ảnh, đất nước, con người Việt Nam, hành vi của bị cáo thực sự nguy hiểm cho xã hội nên cần trừng trị để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
[4] Xét các tình tiết tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại, khắc phục hậu quả, phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo đầu thú, bố bị cáo là ông Nguyễn Đình Hồng là người có công được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng 3, người bị hại có yêu cầu xem xét giảm nhẹ cho bị cáo, đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, công việc ổn định nên cho bị cáo hưởng lượng khoan hồng của pháp luật cho bị cáo được cải tạo giáo dục tại địa phương cũng đủ điều kiện để trở thành công dân tốt cho xã hội.
[5] Về hình phạt bổ sung và khấu trừ thu nhập: Bị cáo hoàn cảnh kinh tế khó khăn, nuôi con nhỏ vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, cũng như khấu trừ thu nhập đối với bị cáo H.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản đầy đủ, không yêu cầu gì nên Tòa án không xem xét.
[7] Về án phí: Buộc bị cáo H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị H phạm tội “ Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ khoản 1 điều 173, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điều 36 Bộ luật hình sự:
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H 18 ( Mười tám) tháng cải tạo không giam giữ được khấu trừ 9 ngày ( do quy đổi 3 ngày tạm giữ), thời gian cải tạo không giam giữ tính từ ngày UBND xã H1, huyện H nhận được Quyết định thi hành án.
Giao bị cáo H cho UBND xã H1, huyện H, Nghệ An và gia đình theo dõi, quản lý và giáo dục bị cáo trong thời gian cải tạo không giam giữ.
Miễn áp dụng biện pháp khấu trừ thu nhập đối với bị cáo H.
Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội. Buộc bị cáo Nguyễn Thị H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 30 ngày kể từ ngày niêm yết Bản án trên cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An.
Bản án 46/2019/HS-ST ngày 24/05/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 46/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/05/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về