Bản án 46/2018/HNGĐ-ST ngày 14/09/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NÔNG CỐNG, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 46/2018/HNGĐ-ST NGÀY 14/09/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 14 tháng 9 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nông Cống xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 102/2018/TLST - HNGĐ ngày 21 tháng 5 năm 2018 về ly hôn và nuôi con. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 73/2018/QĐXXST- HNGĐ ngày 29 tháng 8 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị H, sinh năm 1985 (Có mặt) Địa chỉ: Thôn T K, xã C L, huyện N C, tỉnh Thanh Hóa

2. Bị đơn: Anh Trịnh Duy T, sinh năm 1982 ( Vắng mặt)

Địa chỉ: Thôn T K , xã C L, huyện N C, tỉnh Thanh Hóa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 15 tháng 12 năm 2017 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Lê Thị H trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Trịnh Duy T xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn do Ủy ban nhân dân xã C Ch, huyện N C, tỉnh Thanh Hóa cấp ngày 09 tháng 01 năm 2004. Sau khi cưới vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 6/2011 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do: Anh T nghiện ma túy, dẫn đến gia đình nợ nần, khó khăn. Gia đình đã gửi anh T đi cai nghiện tự nguyện 1 lần và cai nghiện bắt buộc 1 lần, nhưng đến nay anh T không cai nghiện được, mà chuyển sang sử dụng ma túy đá. Khi cơn nghiện lên anh T thường xuyên hành hung, đánh đập vợ con. Chị cảm thấy chung sống với anh T không đảm bảo về sức khỏe và tính mạng cho chị và con. Tình cảm giữa chị và anh T không còn nữa. Chị và anh T sống ly thân và chấm dứt quan hệ sinh lý từ ngày 29/4/2018 (âm lịch) đến nay. Hiện nay chị H không có thai nghén. Xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị H xin được ly hôn với anh T.

Về con: Chị H và anh T có 2 con chung là Trịnh Thế H, sinh ngày 15/10/2004 và Trịnh Duy Phước Th, sinh ngày 26/6/2012. Hiện nay 2 cháu đang ở với chị H. Nguyện vọng của chị H xin được nuôi 2 con và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay chị H làm nghề uốn tóc nam nữ thu nhập trung bình 10.000.000đ/1tháng.

Về tài sản và nợ chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại Bản tự khai ngày 27 tháng 6 năm 2018, bị đơn anh Trịnh Duy T trình bày: Quá trình kết hôn và đăng ký kết hôn anh thống nhất với ý kiến trình bày của chị H. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống đến tháng 6/2011 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do: Vợ chồng không hợp nhau về tính cách, xảy ra nhiều bất đồng quan điểm trong cuộc sống, không có tiếng nói chung. Mâu thuẫn khác là do việc chăm sóc con cái và do anh sử dụng ma túy từ năm 2007, nhưng anh đã đi cai nghiện năm 2013. Hiện tại anh vẫn còn sử dụng ma túy. Vì những nguyên nhân trên nên vợ chồng thường xuyên cãi nhau, anh đã đánh chị H nhiều lần vì do chị H nói sai. Chị Hường 4 lần viết đơn xin ly hôn nhưng anh không đồng ý. Vợ chồng sống ly thân từ ngày 29/4/2018 (Âm lịch) đến nay và mang hai con đi theo. Anh xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn. Chị H làm đơn ly hôn anh không nhất trí, anh mong muốn vợ chồng đoàn tụ.

Về con: Vợ chồng có 2 con chung như chị H trình bày. Nguyện vọng của anh T thống nhất để chị H nuôi 2 con và không cấp dưỡng nuôi con. Sau nay anh sẽ để lại nhà cho con. Hiện nay anh T làm nghề xây dựng, thu nhập trung bình 5.000.000đ/tháng.

Về tài sản, nợ chung: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa anh T vắng mặt nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Chị H vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn và nuôi con chung.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu: Thẩm phán chấp hành đúng quy định tại Điều 48, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định tại Điều 49 và đương sự đã thực hiện đúng theo quy định tại Điều 70, Điều 71, Điều 72 và Điều 234 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung: Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 1 điều 228, điều 271, điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu của chị H được ly hôn anh T. Về con chung: Giao cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung, ghi nhận chị H không yêu cầu cấp dưỡng. Tài sản: Chị H và anh T không yêu cầu nên không xem xét giải quyết. Chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Kiến nghị khắc phục vi phạm trong quá trình giải quyết vụ án: Không.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÕA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào diễn biến tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

{ 1} Về tố tụng: Tòa án nhân dân huyện N C thụ lý và giải quyết vụ án ly hôn của chị H và anh T là đúng quy định về thẩm quyền xét xử theo quy định tại Khoản 1 Điều 28; Khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

Anh T có đơn xin đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ Khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt đương sự.

{2} Về nội dung:

2.1. Hôn nhân giữa chị Lê Thị H và anh Trịnh Duy T dựa trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn. Đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ.

Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh T nghiện ma túy đá nên thường xuyên hành hung, đánh đập vợ con. Do nghiện ma túy đã lâu nên đã tiêu tốn tài sản làm cho gia đình lâm vào cảnh nợ nần túng thiếu. Vì nguyên nhân trên dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau gây không khí căng thẳng cho gia đình.

Đánh giá mâu thuẫn và thực trạng cuộc sống vợ chồng: Chị H và anh T đã sống ly thân, không ai quan tâm đến ai. Điều đó chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh T mâu thuẫn đã trầm trọng. Mục đích hôn nhân là xây dựng gia đình hoà thuận, hạnh phúc không đạt được. Anh T không đồng ý ly hôn nhưng không có thiện chí để níu kéo hạnh phúc. Không từ bỏ ma túy để làm ăn xây dựng cuộc sống chung, mà cứ phó mặc cho mình chị H nuôi con. Điều đó chứng tỏ anh T không muốn cuộc sống vợ chồng hạnh phúc. Xét thấy mâu thuẫn đã trầm trọng kéo dài, đời sống chung không còn tồn tại. Hai bên không còn quan tâm đến nhau. Tình cảm vợ chồng đã hết. Vì vậy căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình HĐXX chấp nhận yêu cầu ly hôn là phù hợp.

2.2. Về con: Xác nhận chị H và anh T có 02 con chung. Hiện nay con đang ở với chị H. Tại biên bản hòa giải chị H và anh T thống nhất thỏa thuận chị H trực tiếp nuôi hai con. Về cấp dưỡng nuôi con chung chị H không yêu cầu. Xét thấy việc thỏa thuận phân chia trách nhiệm nuôi con của hai bên là tự nguyện, đúng quy định của pháp luật nên HĐXX chấp nhận.

2.3. Về tài sản và nợ chung: Chị H và anh T không yêu cầu giải quyết nên không xét.

2. 4.Về án phí: Chị H khởi kiện vụ án xin ly hôn, không thuộc diện được miễn án phí nên phải nộp tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 228; khoản 4 Điều 147, Điều 271, Điều 273 BLTTDS năm 2015; Điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án. Tiểu mục 1.1, mục 1 phần II của Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị Quyết.

- Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận cho chị Lê Thị H được ly hôn anh Trịnh Duy T.

2. Về con chung: Ghi nhận sự thỏa thuận của chị H và anh T về nuôi con chung như sau: Chị H trực tiếp nuôi dưỡng 2 con chung là Trịnh Thế H, sinh ngày 15/10/2004 và Trịnh Duy Phước Th, sinh ngày 26/6/2012. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung chị H không yêu cầu.

Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

3 Về tài sản và nợ chung: Chị H và anh T không yêu cầu nên không xét.

4. Về án phí: Chị Lê Thị H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nông Cống, theo biên lai thu số AA/2015/0006655 ngày 21/5/2018, chấp nhận chị H đã nộp đủ tiền án phí.

5. Quyền kháng cáo: Tuyên quyền kháng cáo bản án cho chị H trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với anh T vắng mặt, thời hạn kháng cáo bản án là 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

257
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 46/2018/HNGĐ-ST ngày 14/09/2018 về ly hôn

Số hiệu:46/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nông Cống - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về