Bản án 46/2018/HNGĐ-ST ngày 14/05/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 46/2018/HNGĐ-ST NGÀY 14/05/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 14/5/2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý 68/2018/TLST-HNGĐ ngày 20/04/2018 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử 922/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 5 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Vũ Văn L; nơi cư trú: Thôn Ðồng Mới, xã Lập Lễ, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng; có mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Chị Ðinh Thị Thanh Ng; nơi cư trú: TIMOTEIVEIEN 3, 3118 TØNSBERG, Na Uy; vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn và các bản tự khai, nguyên đơn là anh Vũ Vãn Lồi trình bày:

Anh và chị Ðinh Thị Thanh Ng kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 11 tháng 01 năm 2008 tại Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng. Sau khi kết hôn anh chị chung sống ở Việt Nam một thời gian sau đó chị Ng quay trở lại Na Uy sinh sống và làm thủ tục bảo lãnh cho anh sang Na Uy để vợ chồng đoàn tụ, nhưng do điều kiện kinh tế không đảm bảo nên cơ quan có thẩm quyền của Na Uy từ chối. Từ đó giữa anh và chị Ng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh không thể sang được Na Uy còn chị Ng thì không muốn về Việt Nam sinh sống, dẫn đến vợ chồng bất đồng quan điểm sống, lối sống. Xét khả năng đoàn tụ giữa anh và chị Ng là không thể. Đến thời điểm hiện tại anh xác định mục đích hôn nhân giữa anh và chị N  không đạt, tình cảm không còn vì vậy tôi đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Đinh Thị Thanh Ng.Về nuôi con và chia tài sản: Anh chị không có con chung và tài sản chung nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết. Trong đơn xin ly hôn gửi đến Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng, bị đơn là chị Ðinh Thị Thanh Ng trình bày: Thống nhất với anh Vũ Văn L về quá trình kết hôn, về con chung, về tài sản chung, về lý do xin ly hôn. Chị cũng đề nghị Tòa án xem xét giải quyết cho chị được ly hôn với anh Vũ Văn L.

Do chị Ðinh Thị Thanh Ng đang ở nước ngoài và đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải, căn cứ khoản 2, khoản 4 Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án không tiến hành hòa giải vụ án.

Tại phiên tòa, anh Vũ Văn L có mặt giữ nguyên quan điểm như trong đơn xin ly hôn và các bản tự khai. Chị Ðinh Thị Thanh Ng vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời khai của đương sự tại phiên tòa xét thấy:

[1] Anh Vũ Văn L và chị Ðinh Thị Thanh Ng kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 11 tháng 01 năm 2008 tại Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng, theo quy định tại Điều 9, Điều 11 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đây là hôn nhân hợp pháp. Chị Ðinh Thị Thanh Ng hiện đang cư trú ở nước ngoài, theo quy định tại khoản 3 Điều 35, điểm b khoản 1 Điều 39, điểm d khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.

[2] Về sự vắng mặt của các đương sự: Chị Ðinh Thị Thanh Ng hiện đang sinh sống ở nước ngoài, chị có đơn xin ly hôn gửi về Việt Nam, tài liệu của chị đã được Đại sứ quán Việt Nam tại Na Uy chứng nhận. Trong đơn xin ly hôn chị đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt và ủy quyền cho anh Vũ Văn L nhận các văn bản tố tụng của Tòa án cho chị. Căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự Toà án tiến hành xét xử vắng mặt chị Đinh Thị Thanh Ng .

[3] Về hôn nhân: Mặc dù anh Vũ Văn L và chị Ðinh Thị Thanh Ng kết hôn trên cơ sở tự nguyện nhưng từ sau khi kết hôn anh chị không có cuộc sống chung, do chị Định Thị Thanh Ng không đủ điều kiện bảo lãnh cho anh Vũ Văn L sang Na Uy đoàn tụ vợ chồng và chị Ðinh Thị Thanh Ng không muốn trở về Việt Nam chung sống cùng anh Vũ Văn L. Như vậy, hôn nhân của anh chị kéo dài hơn mười năm nhưng vợ chồng không có thời gian gần gũi, yêu thương, chăm sóc, chia sẻ chia sẻ vui buồn khó khăn cùng nhau. Đến nay cả hai đều xác định tình cảm vợ chồng không còn, nên yêu cầu ly hôn của anh Lồi và chị Ng  là chính đáng.

[4] Xét quan hệ hôn nhân giữa anh Lồi, chị Ng  đã thực sự không còn yêu thương nhau, vợ chồng mỗi người một nơi không quan tâm đến nhau cả về kinh tế và tình cảm. Như vậy, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cần áp dụng Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 châp nhân đê nghi xin ly hôn của anh Vũ Văn L.

[5] Về nuôi con và chia tài sản: Anh Vũ Văn L và chị Đinh Thị Thanh Ng, không có con chung, không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Anh Vũ Văn L là nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo của các đương sự: Anh Vũ Văn L và chị Ðinh Thị Thanh Ng được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 35; khoản 1 Điều 37; điểm b khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 2, khoản 4 Điều 207; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 266; Điều 273; điểm d khoản 1 Điều 469; khoản 2 Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,Tuyên xử:

1.Về quan hệ hôn nhân: Anh Vũ Văn L được ly hôn với chị Đinh Thị Than Ng.2.Về nuôi con và chia tài sản: Anh Vũ Văn L và chị Ðinh Thị Thanh Ng không có con chung và tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

3.Về án phí: Anh Vũ Văn L phải chịu 300.000 đông (Ba trăm nghin đông ) án phí ly hôn sơ thẩm . Nhưng đươc trư vao sô tiên tam ưng an phi dân sư sơ thâm đa nôp la  300.000 đông theo biên lai sô   0010682 ngày 20 tháng 4 năm 2018 tại Cục Thi hanh an dân sư thanh phô Hai Phong. Anh Vũ Văn L đã nộp đủ.

4.Về quyền kháng cáo của các đương sự:

 Anh Vũ Văn L được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Chị Ðinh Thị Thanh Ng được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 46/2018/HNGĐ-ST ngày 14/05/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:46/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về