Bản án 46/2018/HNGĐ-ST ngày 12/10/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ GIÁO, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 46/2018/HNGĐ-ST NGÀY 12/10/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 12 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 180/2018/TLST - HNGĐ ngày 10 tháng 5 năm 2018 về tranh chấp ly hôn. tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 9 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 31/2018/QĐST-HNGĐ ngày 09/10/2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Chu Thị H, sinh năm 1994; địa chỉ: Xã T, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương; có đơn xin vắng mặt.

- Bị đơn: Ông Lê Huy C, sinh năm 1986; địa chỉ: Xã T, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 08 tháng 5 năm 2018 và trong quá trình xét xử nguyên đơn bà Chu Thị H trình bày:

- Về hôn nhân: Bà H và ông C chung sống với nhau từ năm 2012 và có đăng ký kết hôn vào ngày 01/8/2012 tại UBND xã T. Việc sống chung là hoàn toàn tự nguyện, không ai ép buộc. Thời gian đầu chung sống thì hạnh phúc nhưng sau đó không hạnh phúc do thường xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên gây gổ, cãi vã nhau. Nay, nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng không thể hàn gắn được, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, bà H xin ly hôn với ông Lê Huy C.

- Về con chung: Trong quá trình chung sống bà H và ông C có 01 người con chung tên Lê Thị Q, sinh ngày 09/9/2013. Khi ly hôn bà H yêu cầu được nuôi con và không yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 13 tháng 6 năm 2018, bị đơn ông Lê Huy C trình bày: Ông C thống nhất với lời trình bày của bà H về hôn nhân, con chung, tài sản chung, nợ chung, về hôn nhân: Ông C đồng ý ly hôn với bà H. Về con chung: Quá trình chung sống bà H và ông C có 01 người con chung tên Lê Thị Q, sinh ngày 09/9/2013. Khi ly hôn ông đồng ý giao con chung cho bà H nuôi dưỡng.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng, của những người tiến hành tố tụng:

Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến khi khai mạc phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Thư ký đã tiến hành đúng, đầy đ các thủ tục tố tụng theo quy định. Tính đến ngày Tòa án có quyết định, đưa vụ án ra xét xử, vụ án còn trong thời hạn chuẩn bị xét xử theo điểm a khoản 1 Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa sơ thẩm, những người tiến hành tố tụng như Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án và những người tham gia tố tụng chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Về hôn nhân, bà H và ông C chung sống với nhau có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp, do có mâu thuẫn vợ chồng nên đã sống ly thân và hiện không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau, về con chung, trong quá trình chung sống bà H và ông C có 01 người con chung tên Lê Thị Q, sinh ngày 09/9/2013. Khi ly hôn bà H yêu cầu được nuôi con chung và không yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con, ông C cũng đồng ý để bà H chăm sóc, nuôi dưỡng con chung nên tiếp tục để bà H nuôi dưỡng con chung, về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà H là có cơ sở nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận và không kiến nghị khắc phục hay bổ sung gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; sau khi Kiểm sát viên phát biểu về việc chấp hành pháp luật tố tụng dân sự của người tiến hành tố tụng và của đương sự, về nội dung vụ án; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông C đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở để xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại các điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Yêu cầu khởi kiện của bà Chu Thị H về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn; bị đơn ông Lê Huy C có nơi cư trú tại xã T,huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương, do đó vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phú Giáo theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về hôn nhân: Bà H và ông C chung sống với nhau từ năm 2012 và có đăng ký kết hôn vào ngày 01/8/2012 tại UBND xã T. Quan hệ hôn nhân giữa bà H và ông C là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống nguyên đơn cho rằng vợ chồng không hợp nhau, thường xuyên cãi nhau về mọi vấn đề trong cuộc sống, bị đơn ông C cũng đồng ý với lời trình bày của bà H. Qua xác minh tại chính quyền địa phương thì bà H và ông C hiện đã ly thân không còn sống chung với nhau.

Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng giữa bà H và ông C đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, việc xin ly hôn của bà H là hoàn toàn tự nguyện nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà H theo quy định, tại khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về con chung: Căn cứ vào lời khai nhận của đương sự, các bản sao giấy khai sinh, xác định bà H và ông C có 01 người con chung tên Lê Thị Q, sinh ngày 09/9/2013. Khi ly hôn bà H yêu cầu được nuôi con chung và không yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con, ông C cũng đồng ý để bà H chăm sóc, nuôi dưỡng con chung nên tiếp tục để bà H nuôi dưỡng con chung là chính đáng và phù hợp với khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Tại đơn khởi kiện và quá trình giải quyết, bà H và ông C không yêu cầu Tòa án giải quyết cấp dưỡng nuôi các con chung nên không xem xét.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết.

[7] Về án phí sơ thẩm: Yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con của bà H và ông C được Tòa án chấp nhận nên theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bà H phải chịu toàn bộ án phí với mức thu là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng).

[8] Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa về nội dung vụ án là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 266; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, các Điều 57, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Chu Thị H đối với bị đơn ông Lê Huy C.

1. Về hôn nhân: Bà Chu Thị H được ly hôn với ông Lê Huy C.

2. Về con chung: Bà Chu Thị H được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Lê Thị Q, sinh ngày 09/9/2013. Ghi nhận sự tự nguyện của bà H không yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con.

Ông Lê Huy C có quyền, nghĩa vụ thăm nom các con chung mà không ai được cản trở. Vì quyền lợi hợp pháp, chính đáng của các con chưa thành niên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con khi đương sự có yêu cầu phù hợp quy định pháp luật.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

4. Về án phí: Bà Chu Thị H phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp trước đây theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0007362 ngày 09/5/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 46/2018/HNGĐ-ST ngày 12/10/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:46/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Giáo - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về