Bản án 457/2019/HS-ST ngày 17/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH N

BẢN ÁN 457/2019/HS-ST NGÀY 17/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17/10/2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân TP V, tỉnh N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 477/2019/TLST-HS ngày 04/10/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 572/QĐXXST-HS ngày 04/10/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Văn C - Sinh ngày 22/8/1991 tại huyện H, tỉnh N; Nơi cư trú: Xóm 3, xã C, huyện H, tỉnh N; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: lớp 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn T và bà Trần Thị Th; Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: không; Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/8/2019 đến nay - có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 06/8/2019, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Lê Văn C gọi điện thoại cho một người đàn ông tên M (C không biết lai lịch, địa chỉ) hỏi mua một gói ma túy đá với giá 300.000 đồng, người đàn ông tên M đồng ý và hẹn C đến đầu đường Trương Hán Siêu, thuộc phường B, TP V, tỉnh N để giao dịch mua bán ma túy. Đến 21 giờ 50 phút cùng ngày, c bắt xe taxi đến điểm hẹn gặp và đưa cho người đàn ông tên M 300.000 đồng, người đàn ông tên M cầm tiền rồi đưa cho C 01 gói ni lông màu trắng, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng. Sau khi mua được ma túy, C bắt xe taxi đi đến chung cư Tràng An, thuộc khối T, phường V, TP V để lên nhà bạn chơi. Khi C đang đi bộ trước sảnh chung cư Tràng An thì bị tổ công tác Đội tuần tra kiểm soát giao thông 1-7, phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh N kiểm tra hành chính, phát hiện thu giữ trong lòng bàn tay trái của C 01 gói ni lông màu trắng, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, người cùng tang vật được đưa về trụ sở Công an TP V lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại ngày 06/8/2019 của Công an TP V và Kết luận giám định số 1135/KL-PC09 ngày 13/8/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N kết luận: “Mẫu chất tinh thể màu trắng thu giữ của Lê Văn C gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine), có khối lượng là 0,535 gam”

Cáo trạng số 493/CT-VKS-HS ngày 01/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố V truy tố bị cáo Lê Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP V giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị HĐXX: Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249, các điểm s, t khoản 1, khoản 2 điều 51, Điều 54 BLHS xử phạt Lê Văn C từ 7 đến 10 tháng tù. Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt tiền cho bị cáo. Về vật chứng: Áp dụng điều 47 BLHS, điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư niêm phong vật chứng thu giữ của Lê Văn C, tịch thu sung quỹ nhà nước 01 chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Sam sung là phương tiện phạm tội hiện có tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sụ TP V. Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 136 BLTTHS, điều 23 Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội buộc bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định.

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Văn C khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đứng như cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố, không có ý kiến tranh luận gì mà chỉ xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Tại phiên tòa bị cáo Lê Văn C khai nhận: Vào hồi 21 giờ 50 phút ngày 06/8/2019 tại khu vực trước sảnh chung cư Tràng An, thuộc khối T, phường V Tân, TP V, tỉnh N, bị cáo có hành vi cất giữ trái phép 01 gói ma túy (Methamphetamine), khối lượng 0,535 gam với mục đích để sử dụng thì bị tổ công tác Đội tuần tra kiểm soát giao thông 1-7 thuộc Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh N kiểm tra phát hiện, bắt quả tang. Lời khai nhận tội của bị cáo trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa đều phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết quả giám định và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở kết luận: Hành vi cất giữ 0,535 gam ma túy (Methamphetamine) để sử dụng mà bị cáo Lê Văn C thực hiện đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự .

[2.2]. Vụ án thuộc loại nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã vi phạm quy định về quản lý chất ma túy của Nhà nuớc, gây mất trật tự trên địa bàn thành phố V nói riêng và trật tự trị an xã hội nói chung. Mặc dù biết rõ tác hại về nhiều mặt do ma túy gây ra và bị nhà nước nghiêm cấm nhưng do ý thức chấp hành pháp luật kém, ăn chơi đua đòi, nghiện ngập ma túy nên bị cáo vẫn ngang nhiên mua ma túy về sử dụng, vì vậy cần phải xử lý nghiêm, việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là cần thiết để cải tạo, giáo dục bị cáo và có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội. Tuy nhiên HĐXX xét thấy quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đều khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, trước khi phạm tội bị cáo đã có công giúp Đồn biên phòng cửa khẩu quốc tế Nậm Cắn - Bộ chỉ huy bộ đội Biên phòng tỉnh N phát hiện tội phạm, bắt giữ 2 đối tượng Xồng Bá Hử và Xồng Bá Và (trú tại xã Mường Ải, huyện Kỳ Sơn, tỉnh N) đang có hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy, được Đồn biên phòng cửa khẩu quốc tế Nậm Cắn làm công văn xác nhận và đề nghị các cơ quan có thẩm quyền giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, gia đình bị cáo có công với cách mạng, cả ông nội và ông ngoại của bị cáo đều được nhà nước tặng thưởng huy chương kháng C các loại. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS nên cần áp dụng Điều 54 BLHS xử cho bị cáo được hưởng mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt như lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp, để bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của pháp luật mà cải tạo trở thành người có ích cho xã hội.

[2.3]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là người bị nghiện ma túy, không có tài sản gì nên miễn hình phạt tiền cho bị cáo.

[2.4]. Về xử lý vật chứng: Gồm 01 phong bì thư niêm phong vật chứng là ma túy thu giữ của Lê Văn C cần tịch thu tiêu hủy. Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung màu xanh đen Lê Văn C sử dụng làm phương tiện phạm tội cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

Trong vụ án này theo lời khai của Lê Văn C còn có người đàn ông tên M đã bán ma túy cho C nhưng do C không biết được lai lịch, địa chỉ nên cơ quan điều tra Công an thành phố V tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ xử lý sau.

[2.5]. Về án phí: Bị cáo Lê Văn C phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn C phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; các điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 BLHS xử phạt: Lê Văn C 07 (Bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam 06/8/2019.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ các điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì thư niêm phong vật chứng thu giữ của Lê Văn C. Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung màu xanh đen, số thuê bao 0828793456 Lê Văn C sử dụng làm phương tiện phạm tội. Số vật chứng trên hiện có tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự TP V, có đặc điểm theo phiếu nhập kho số NK 0008 ngày 03/10/2019.

- Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Lê Văn C phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (17/10/2019) bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh N.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

124
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 457/2019/HS-ST ngày 17/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:457/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về