Bản án 45/2019/HS-ST ngày 17/07/2019 về tội chống người thi hành công vụ

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI, TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 45/2019/HS-ST NGÀY 17/07/2019 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ

Ngày 17 tháng 7 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Q xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 39/2019/TLST-HS, ngày 20/5/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 49/2019/QĐXXST-HS, ngày 17/6/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Thành T (Tên gọi khác: B), sinh ngày 26 tháng 10 năm 1988 tại tỉnh Quảng Ngãi; nơi cư trú: Thôn A, xã N, thành phố Q, tỉnh Q; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Hữu S và bà Nguyễn Thị B; bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị Minh T và có hai con chung; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 04/02/2008 Lê Thành T thực hiện hành vi gây thương tích cho người khác; ngày 21/02/2008 bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Q khởi tố về tội “ Cố ý gây thương tích”; đến ngày 08/10/2008 Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Q đình chỉ bị can vì bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự.

Ngày 06/02/2019 có hành vi xâm hại đến sức khỏe người khác hiện Công an xã Nghĩa Dũng đang tiến hành xử lý.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/3/2019 mãi đến nay Bị cáo có mặt tại phiên tòa

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Từ Văn Quốc, văn phòng luật sư Phan Xuân Tích thuộc Đoàn luật sư thành phố Đà Nẵng.- có mặt

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Lê Văn M, sinh năm 1980, vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt

+ Lê Minh Th, sinh năm 1994, vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt

Hiện đang công tác tại: Đội cảnh sát giao thông công an thành phố Q, tỉnh Q

- Người làm chứng:

+ Đặng Minh M, sinh năm 1985, vắng mặt Trú tại: Tổ A, phường C, thành phố Q, tỉnh Q

+ Huỳnh Tấn H, vắng mặt Hiện đang công tác tại: Công ty TNHH MTV M; địa chỉ trụ sở: Số 464 Phan Đình Phùng, phường C, thành phố Q

+ Bùi Phụ Q, sinh năm 1984, vắng mặt Trú tại: Tổ A, phường T, thành phố Q, tỉnh Q

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa; nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 19 giờ 00 phút, ngày 11/3/2019, tổ công tác của Đội Cảnh sát giao thông Công an thành phố Q do đồng chí Lê Văn M (tổ trưởng), Huỳnh Phước H và Lê Minh Th (tổ viên) phối hợp cùng Công an phường C là đồng chí Nguyễn Văn M và 02 (hai) bảo vệ dân phố là ông Nguyễn Xuân L và Bùi Xuân B tiến hành lập chốt kiểm tra nồng độ cồn tại trước nhà số 464 đường Phan Đình Phùng (Công ty TNHH M) thuộc phường C, thành phố Q theo kế hoạch số: 392/KH-CATP(CSGT) ngày 29/01/2019 của trưởng Công an thành phố Q về đảm bảo an toàn giao thông năm 2019.

Đến khoảng 19 giờ 50 phút cùng ngày, tổ công tác phát hiện và dừng xe ô tô biển số 76A-091.54 đang lưu thông theo hướngBắc vào Nam, do ông Bùi Phụ Q, sinh năm 1984; trú tại: Phường T, thành phố Q điều khiển, trên xe có Lê Thành T (tên gọi khác: B), sinh năm 1988; trú tại thôn 2, xã N, thành phố Q. Lúc này, Bùi Phụ Q xuống xe, đồng chí Lê Văn M thực hiện việc kiểm tra nồng độ cồn theo quy định, đồng chí M đang hướng dẫn và yêu cầu Bùi Phụ Q thổi hơi thở vào máy đo nồng độ cồn, nhưng Q không hợp tác. Lê Thành T ngồi trên xe thấy vậy nên xuống xe và có những lời lẽ chửi bới xúc phạm, hăm dọa tổ công tác, không cho tổ công tác thực hiện nhiệm vụ đo nồng độ cồn đối với Bùi Phụ Q. Tiếp tục, Lê Thành T điện thoại cho ai đó nói mang súng đến cho T, thì một lúc sau có 02 đối tượng tên là V và Đi (chưa xác định nhân thân lai lịch) là bạn của T đến. Lê Thành T tiếp tục hăm dọa và xông vào dùng tay nắm cổ áo đồng chí Lê Văn M, thì được V và Đ can ngăn; T giật mạnh làm đứt cúc áo và xây xát da vùng ngực đồng chí M. Sau khi được V và Đ can ngăn đẩy ra T tiếp tục dùng tay gạt máy quay phim của đồng chí Lê Minh Th đang ghi hình gần đó và dùng tay phải đánh một cái trúng mặt đồng chí Lê Minh Th. Sau khi được can ngăn Lê Thành T cùng Bùi Phụ Q bỏ đi khỏi hiện trường để lại xe ô tô 76A-091.54.

Sau khi xảy ra sự việc, tổ công tác dừng nhiệm vụ và đưa các đồng chí Lê Văn M và Lê Minh Th đến Trạm y tế phường C để chữa trị vết thương.

Qua xem xét dấu vết trên thân thể ghi nhận hai đồng chí bị một số thương tích như sau:

- Đồng chí Lê Văn M bị trầy xước da ở vị trí dưới cổ áo với tình trạng nút (cúc) áo bị bứt một nút ở phía trên, trầy xước da ở mặt sau cẳng tay trái.

- Đồng chí Lê Minh Th bị thương ở niêm mạc môi trên bầm tụ máu và xây xát da.

Đến ngày 12/3/2019, Lê Thành T đến trụ sở Công an thành phố Q đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi chống người thi hành công vụ phù hợp với tài liệu thu thập được.

Tang vật thu giữ: 01 (một) USB màu xanh chứa dữ liệu ghi lại hình ảnh về hành vi chống người thi hành công vụ của Lê Thành T.

Cáo trạng số 41/CT-VKS, ngày 13/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi đã truy tố bị cáo Lê Thành T về tội “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 330 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, kiểm sát viên thực hành quyền công tố đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Lê Thành T phạm tội “Chống người thi hành công vụ” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 01 Điều 330; Điểm i, s khoản 1 Khoản 2 Điều 51; Điều 32; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Thành T từ 09 đến 12 tháng tù.

- Về phần dân sự: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu gì. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên:

Tch thu lưu hồ sơ vụ án: 01 (một) USB màu xanh chứa dữ liệu ghi lại hình ảnh về hành vi chống người thi hành công vụ của Lê Thành T.

- Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên buộc bị cáo Lê Thành T phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Luật sư bào chữa cho bị cáo: Thống nhất cáo trạng Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Chống người thi hành công vụ” theo Khoản 1 Điều 330 Bộ luật Hình sự. Nhưng bị cáo thành khẩn khai bao, ăn năn hối cải; bị cáo đã nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật nên đã đến cơ quan công an tự thú; bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, gây thiệt hại nhưng không lớn. Nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội là do bị cáo có sử dụng bia, rượu nên không điều chỉnh được hành vi; bị cáo tích cực hợp tác với cơ quan công an trong quá trình giải quyết vụ án và bị cáo còn có hai con nhỏ; hoàn cảnh gia đình khó khăn. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 330; điểm h, i, s, r, t Khoản 1 Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo mức khởi điểm khung hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố; điều tra viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Điều 37 Bộ luật Tố tụng hình sự; kiểm sát viên thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại Điều 42 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng không khiếu nại hành vi, quyết định tố tụng gì của điều tra viên, kiểm sát viên. Do đó, trình tự, thủ tục tố tụng trong vụ án là hợp pháp.

[2] Về nội dung: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lê Thành T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như nội dung vụ án. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Lê Thành T là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự; đủ khả năng hiểu biết và điều khiển hành vi của bị cáo nhưng vì xem thường pháp luật nên vào khoảng 19 giờ 50 phút, ngày 11/3/2019 bị cáo thấy cảnh sát giao thông yêu cầu anh Q lái xe thổi vào máy đo nồng độ cồn thì lúc này bị cáo xuống xe đã dùng những lời lẽ chửi bới xúc phạm, hăm dọa tổ công tác của Đội Cảnh sát giao thông Công an thành phố Q đang làm nhiệm vụ đảm bảo an toàn giao thông năm 2019 theo kế hoạch của trưởng công an thành phố Q. Sau đó, bị cáo tiếp tục đe dọa và xông đến dùng tay túm cổ áo anh Lê Văn M làm đứt nút (cúc) áo và xây xát da vùng ngực, cẳng tay trái anh M; tiếp sau đó bị cáo tiếp tục dùng tay gạt máy quay phim do anh Lê Minh Th đang ghi hình gần đó và dùng tay phải đánh một cái trúng miệng anh Lê Minh Th làm cho tổ công tác không thực thi được nhiệm vụ theo kế hoạch.

[3] Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lê Thành T phạm tội “Chống người thi hành công vụ”; tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 330 Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng truy tố bị cáo Lê Thành T là phù hợp với nhận định trên.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Lê Thành T tại phiên tòa đã khai báo thành khẩn, thái độ ăn năn hối cải; sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã ra đầu thú; bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm i, s Khoản 1 Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Hội đồng xét xử cũng xét thấy: Bị cáo Lê Thành T có nhân thân xấu. Do đó, cần áp dụng Điều 38 Bộ luật Hình sự khi xét xử đối với bị cáo; cách ly bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội một thời gian để đảm bảo răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[6] Xét lời bào chữa của luật sư đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm h, r, t Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là không có căn cứ nên Hội đồng xét xử không chấp nhận. Đối với mức hình phạt mà kiểm sát viên đề nghị là chưa phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và có phần nghiêm khắc. Nên Hội đồng xét xử áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội và hậu quả của bị cáo đã gây ra.

[7] Đối với hành vi xô xát, đánh anh Lê Văn M, anh Lê Minh Th; quá trình điều tra anh M, anh Th không yêu cầu xem xét gì về thương tích và cũng không yêu cầu gì về phần dân sự nên Cơ quan cảnh sát điều tra công anh thành phố Q không xem xét về hành vi gây thương tích là đúng quy định. Đối với Bùi Phụ Q là người điều khiển phương tiện giao thông vi phạm nồng độ cồn đã bị công an xử lý vi phạm hành chính và đối với các đối tượng tên V, Đ không liên quan gì đến vụ án nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[8] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) USB màu xanh chứa dữ liệu ghi lại dữ liệu điện tử để chứng minh hành vi phạm tội của Lê Thành T; hiện đang lưu giữ theo hồ sơ vụ án cần tiếp tục lưu giữ theo hồ sơ vụ án.

[9] Về án phí: Bị cáo Lê Thành T phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 330; Điểm i, s Khoản 1 Khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; Điều 136, Điều 331 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

1- Tuyên bố: Bị cáo Lê Thành T (Tên gọi khác: B) phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.

2- Xử phạt bị cáo Lê Thành T (Tên gọi khác: B) 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 12/3/2019).

3- Về án phí: Buộc bị cáo Lê Thành T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

290
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2019/HS-ST ngày 17/07/2019 về tội chống người thi hành công vụ

Số hiệu:45/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Quảng Ngãi - Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về