Bản án 44/2020/HS-ST ngày 15/05/2020 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 44/2020/HS-ST NGÀY 15/05/2020 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Trong ngày 15 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 34/2020/TLST-HS ngày 18 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Hồ Thanh Ph, sinh ngày 19 tháng 02 năm 1996 tại thành phố Đà Nẵng; Nơi cư trú: Tổ 28 phường A, quận B, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ văn hóa: 09/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông Hồ Văn Ch, sinh năm 1970 và bà Phạm Thị Xuân Th, sinh năm 1973 (đều còn sống). Tiền án, tiền sự: Chưa. Bị cáo đang tại ngoại. Có mặt.

- Bị hại: Công ty Cổ phần đầu tư thương mại phát triển A - Chi nhánh Đà Nẵng.

Địa chỉ: 26 đường C, phường D, quận E, thành phố Đà Nẵng.

Đại diện: Bà Nguyễn Thị Tường V, chức vụ: Giám đốc chi nhánh. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Bà Trịnh Cẩm V, sinh năm 1984, trú tại: Số 19 đường G, quận H, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

2/ Ông Phạm Công Nh, sinh năm 1991, trú tại: Tổ 70, phường A, quận B, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

3/ Ông Hồ Ngọc Q, sinh năm 1995, trú tại: Tổ 28, phường A, quận B, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

4/ Ông Hồ Văn H, sinh năm 1968, trú tại: Số 888 đường T, phường L, quận E, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

5/ Ông Phạm Văn V, sinh năm 1975, trú tại: Số 05 đường V, phường O, quận H, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

6/ Bà Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1973, trú tại: Số 43 đường K, phường A, quận B, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

7/ Ông Nguyễn Ngọc S, sinh năm 1986, trú tại: Số 715 đường T, phường L, quận E, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

8/ Bà Trương Thị Diệu H, sinh năm 1981, trú tại: Số 747 đường T, phường L, quận E, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

9/ Bà Nguyễn Thị Thanh L, sinh năm 1977, trú tại: Số 45A đường S, phường L, quận E, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

10/ Bà Phạm Thị Khánh H, sinh năm 1989, trú tại: Số 62 đường S, phường L, quận E, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

11/ Bà Phạm Thị Xuân Th, sinh năm 1973, trú tại: Tổ 28, phường A, quận B, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ tháng 6 năm 2019, Hồ Thanh Ph làm nhân viên giao hàng của Công ty cổ phần đầu tư thương mại Phát triển A – Chi nhánh Đà Nẵng; Địa chỉ: Số 26 đường C, phường D, quận E, thành phố Đà Nẵng.

Ngày 07 và ngày 09 tháng 9 năm 2019, theo sự phân công nhiệm vụ của chị Trịnh Cẩm V, là quản lý nhân sự của Công ty cổ phần đầu tư thương mại Phát triển A– Chi nhánh Đà Nẵng, Ph đến các cửa hàng Thế giới di động tại các địa chỉ: Số 144 đường N, phường H, quận B, thành phố Đà Nẵng; số 02 đường L, phường T, quận E, thành phố Đà Nẵng; số 320 đường D, phường C, quận E, thành phố Đà Nẵng; số 908 đường Đ, phường H, quận B, thành phố Đà Nẵng và cửa hàng FPT tại địa chỉ số 671 đường Đ, phường H, quận B, thành phố Đà Nẵng; để nhận tổng cộng 32 điện thoại di động các loại, 02 máy tính xách tay, 02 máy tính bảng, 04 đồng hồ đeo tay thông minh và một số hóa đơn giá trị gia tăng để nộp về kho của công ty. Sau khi nhận được các tài sản trên, Ph nảy sinh ý định chiếm đoạt điện thoại để cầm cố lấy tiền chơi game. Ph chỉ nộp về kho của công ty 16 điện thoại di động, 02 máy tính xách tay, 02 máy tính bảng, 04 đồng hồ đeo tay thông minh và một số hóa đơn giá trị gia tăng. 16 điện thoại còn lại Ph chiếm đoạt đem về nhà cất giấu, cụ thể:

Ngày 07 tháng 9 năm 2019, Ph chiếm đoạt 11 điện thoại di động gồm: 05 điện thoại Redmi Note 7 xanh, 05 điện thoại Samsung A10, 01 điện thoại Huawei Y9 màu xanh.

Ngày 09 tháng 9 năm 2019, Ph chiếm đoạt 05 điện thoại di động gồm: 01 điện thoại Xiaomi Redmi 7, 01 điện thoại Samsung S8 màu đen, 01 điện thoại Samsung Note 10+, 01 điện thoại Samsung A50 màu xanh, 01 điện thoại Samsung A10S.

Sau đó, Ph đến các cửa hàng cầm đồ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng tự mình cầm cố 12 điện thoại di động, 04 điện thoại di động còn lại thì Ph nhờ anh họ là Phạm Công Nh cầm cố giúp, trên 04 tờ giấy cầm đồ đều ghi tên người cầm là Ph. Số tiền cầm cố được khoảng 35.000.000 đồng, Ph sử dụng chơi game hết.

Ngày 16 tháng 9 năm 2019, do cần tiền tiêu xài nên Ph có đưa cho Phạm Công Nh 11 phiếu cầm đồ để Nh bán giúp. Sau đó, Nh gặp bạn là Hồ Ngọc Q và bán 11 phiếu trên cho Q với giá 500.000 đồng. Sau khi mua các phiếu cầm đồ trên, Q đến cửa hàng cầm đồ B để gia hạn 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung S8 Plus và viết giấy gia hạn mới với tên của Q, một số phiếu cầm đồ hết hạn thì Q vứt bỏ, chỉ giữ lại 07 phiếu.

Ngày 19 tháng 9 năm 2019, chị Trịnh Cẩm V phát hiện sự việc và báo với cơ quan công an. Quá trình điều tra, Hồ Thanh Ph đã khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Tang vật tạm giữ:

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi Note 7 màu xanh, số Imei 1: 860941043725138, số Imei 2: 860941044045130 do cửa hàng cầm đồ L (Địa chỉ: Số 45A đường S, thành phố Đà Nẵng) giao nộp.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi Note 7 màu xanh, số Imei 1: 8609410423869308, số Imei 2: 860941044189300 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A10 màu đen, số Imei 1: 35966106372130, số Imei 2:357967106372138 do cửa hàng cầm đồ K (Địa chỉ: Số 715 đường T, thành phố Đà Nẵng) giao nộp.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A10 màu đen, số Imei 1: 357966106383640, số Imei 2: 357967106383648 do cửa hàng cầm đồ D (Địa chỉ: Số 747 đường T, thành phố Đà Nẵng) giao nộp.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A10 màu đen, số Imei 1: 357966106380158, số Imei 2: 357967106380156 do cửa hàng cầm đồ K (Địa chỉ: Số 05 đường V, thành phố Đà Nẵng) giao nộp.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung S8 Plus màu đen, số Imei 1: 354359089204376, số Imei 2: 354360089204374 do cửa hàng cầm đồ B (Địa chỉ: Số 888 đường T, thành phố Đà Nẵng) giao nộp.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi Note 7 màu xanh, số Imei 1: 8609410423869308, số Imei 2: 860941044189300 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A10 màu đen, số Imei 1: 35966106372130, số Imei 2: 357967106372138 do cửa hàng cầm đồ T (Địa chỉ: Số 715 đường T, thành phố Đà Nẵng) giao nộp.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Huawei Y9 màu xanh, số Imei 1: 862943048240061, số Imei 2: 862943048276073 do cửa hàng cầm đồ Q (Địa chỉ: Số 45 đường K, thành phố Đà Nẵng) giao nộp.

Đối với 07 điện thoại di động nêu trên, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê đã trả lại cho Công ty cổ phần đầu tư thương mại Phát triển A– Chi nhánh Đà Nẵng.

Tại bản kết luận định giá của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xác định giá trị của 16 chiếc điện thoại di động gồm: 05 điện thoại Redmi Note 7 màu xanh, 05 điện thoại Samsung A10 màu đen, 01 điện thoại Huawei Y9 màu xanh, 01 điện thoại Xiaomi Redmi 7, 01 điện thoại Samsung S8 Plus màu đen, 01 điện thoại Samsung Note 10+, 01 điện thoại Samsung A50 màu xanh, 01 điện thoại Samsung A10S là 78.758.472 đồng (bảy mươi tám triệu, bảy trăm năm mươi tám nghìn, bốn trăm bảy mươi hai đồng).

Về dân sự: Đại diện của Công ty cổ phần đầu tư thương mại Phát triển A– Chi nhánh Đà Nẵng là chị Nguyễn Thị Tường V đã nhận 82.153.240 đồng do Ph và gia đình bồi thường thiệt hại, bị hại đã viết đơn bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt cho Ph và không yêu cầu gì thêm.

Đối với những chủ tiệm cầm đồ sau đây: ông Hồ Văn H, chủ tiệm cầm đồ B; ông Phạm Văn V, chủ tiệm cầm đồ K; bà Nguyễn Thị Thanh T, chủ tiệm cầm đồ Q; ông Nguyễn Ngọc S, chủ tiệm cầm đồ T; bà Trương Thị Diệu H, chủ tiệm cầm đồ D; bà Nguyễn Thị Thanh L, chủ tiệm cầm đồ L; bà Phan Thị Khánh H, chủ tiệm cầm đồ Đ. Những người này đã nhận cầm cố điện thoại của Ph nhưng không biết là tài sản do Ph phạm tội mà có, hiện đã nhận tiền bồi thường của Ph và không có yêu cầu gì thêm.

Quá trình điều tra, Hồ Thanh Ph khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản cáo trạng số 42/CT- VKS ngày 18 tháng 3 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã truy tố Hồ Thanh Ph về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 175 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng thực hành quyền công tố Nhà nước giữ nguyên toàn bộ nội dung bản Cáo trạng đã truy tố và căn cứ vào nhân thân, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:

Điểm c khoản 2 Ðiều 175; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hồ Thanh Ph từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù giam.

Bị cáo Hồ Thanh Ph thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã truy tố là đúng. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là sai trái, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, Kiểm sát viên đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra, xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa hôm nay bị cáo Hồ Thanh Ph đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Hồ Thanh Ph là nhân viên giao hàng của Công ty cổ phần đầu tư thương mại Phát triển A– Chi nhánh Đà Nẵng; Địa chỉ: Số 26 đường C, phường D, quận E, thành phố Đà Nẵng. Vào ngày 07/9/2019 và ngày 09/9/2019, theo sự phân công nhiệm vụ của Công ty, Ph đến các cửa hàng Thế giới di động và cửa hàng điện thoại FPT trên địa bàn thành phố Đà Nẵng để nhận hàng hóa và nhập về kho của công ty. Theo đó, Ph đã nhận tổng cộng 32 điện thoại di động các loại, 02 máy tính xách tay, 02 máy tính bảng, 04 đồng hồ đeo tay thông minh và một số hóa đơn giá trị gia tăng. Tuy nhiên, lợi dụng sự tín nhiệm của Công ty, sau khi nhận đủ hàng, Ph chỉ nhập kho của công ty 16 điện thoại di động, 02 máy tính xách tay, 02 máy tính bảng, 04 đồng hồ đeo tay thông minh và một số hóa đơn giá trị gia tăng, còn lại 16 điện thoại di động, Ph chiếm đoạt và đem đi cầm cố lấy tiền tiêu xài cá nhân. Cụ thể: Ngày 07/9/2019, Ph chiếm đoạt 11 điện thoại di động gồm: 05 Điện thoại Redmi Note 7 xanh, 05 Điện thoại Samsung A10, 01 điện thoại Huawei Y9 màu xanh; ngày 09/9/2019, Ph chiếm đoạt 05 điện thoại di động gồm: 01 điện thoại Xiaomi Redmi 7, 01 điện thoại Samsung S8 Plus màu đen, 01 điện thoại Samsung Note 10+, 01 điện thoại Samsung A50 màu xanh, 01 điện thoại Samsung A10S. Qua định giá, 16 điện thoại Ph chiếm đoạt có giá trị 78.758.472 đồng.

Hành vi của Hồ Thanh Ph đã phạm vào tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 175 của Bộ luật Hình sự như Cáo trạng số 42/CT- VKS ngày 18 tháng 3 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án, hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo thì thấy:

Hành vi của bị cáo có tính chất nghiêm trọng, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an xã hội. Do vậy, cần phải xét xử nghiêm, hình phạt đối với bị cáo phải thỏa đáng và tương xứng với hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo để bị cáo có điều kiện cải tạo tu dưỡng để trở thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo đã 02 lần chiếm đoạt tài sản của Công ty, đem đi cầm cố, do đó bị cáo phạm tội thuộc trường hợp phạm tội từ 02 lần trở lên, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; Bị cáo tác động gia đình bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại; đại diện bị hại có đơn xin bãi nại, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cần được áp dụng cho bị cáo.

Từ những phân tích trên, xét lời luận tội của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê về tội danh, mức hình phạt là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 07 điện thoại di động Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã thu hồi trả lại cho bị hại, Hội đồng xét xử thấy phù hợp.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo tác động gia đình bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại, bị hại có đơn bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và không có yêu cầu bồi thường gì thêm, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Đối với những chủ tiệm cầm đồ sau đây: ông Hồ Văn H, chủ tiệm cầm đồ B; ông Phạm Văn V, chủ tiệm cầm đồ K; bà Nguyễn Thị Thanh T, chủ tiệm cầm đồ Q; ông Nguyễn Ngọc S, chủ tiệm cầm đồ T; bà Trương Thị Diệu H, chủ tiệm cầm đồ D; bà Nguyễn Thị Thanh L, chủ tiệm cầm đồ L; bà Phan Thị Khánh H, chủ tiệm cầm đồ Đ. Những người này đã nhận cầm cố điện thoại của Ph nhưng không biết là tài sản do Ph phạm tội mà có nên không đề cập xử lý, hiện đã nhận tiền bồi thường của Ph và không có yêu cầu gì thêm, Hội đồng xét xử thấy phù hợp.

Đối với Phạm Công Nh, khi Ph đưa điện thoại cho Nh cầm giúp thì nói là điện thoại của Ph nên Nh mới đồng ý, Nh không biết điện thoại do Ph phạm tội mà có, Nh cũng không hưởng lợi gì từ việc cầm cố nên không đề cập xử lý, Hội đồng xét xử thấy phù hợp.

Đối với hành vi mua phiếu cầm đồ của Hồ Ngọc Q, Q không biết nguồn gốc các phiếu cầm đồ do đâu mà có nên không đề cập xử lý, Hội đồng xét xử thấy phù hợp.

[8] Về án phí: Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: Điểm c khoản 2 Ðiều 175; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Hồ Thanh Ph phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Hồ Thanh Ph 02 (Hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

2. Về án phí: Căn cứ vào Điều 23 của Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về việc “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, sử dụng án phí, lệ phí Tòa án” của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo Hồ Thanh Ph phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Án xử sơ thẩm công khai, báo cho bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2020/HS-ST ngày 15/05/2020 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:44/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về