Bản án 44/2018/HNGĐ-ST ngày 28/05/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM THUẬN BẮC, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 44/2018/HNGĐ-ST NGÀY 28/05/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 5 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 23/2018/TLST-HNGĐ ngày 17/01/2018 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2018/QĐST-HNGĐ ngày 16/4/2018, Quyết định hoãn phiên tòa số 35/2018/QĐST-HNGĐ ngày 04/5/2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ngọc T, sinh năm 1985 (có mặt)

Địa chỉ: Thôn N, xã C, huyện H, tỉnh Bình Thuận.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Thanh L, sinh năm 1981 (vắng mặt)

Địa chỉ: Thôn B, xã C, huyện H, tỉnh Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại Đơn khởi kiện ngày 11/01/2018 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ngọc T trình bày: Chị và anh Nguyễn Thanh L cưới nhau vào năm 2008, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã C. Việc cưới nhau là do hai bên tự nguyện. Sau khi cưới vợ chồng sống cùng với gia đình chị tại thôn N, xã C. Vợ chồng sống hạnh phúc được 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là anh L làm không đưa tiền cho chị để nuôi con mà đưa hết cho mẹ chồng nên vợ chồng cải vã nhau. Vợ chồng không còn sống chung và quan hệ tình cảm từ năm 2010 đến nay. Trong thời gian không sống chung thì vợ chồng cũng không có gặp nhau để bàn bạc hàn gắn hạnh phúc. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nữa và nguyện vọng của chị là yêu cầu xin được ly hôn anh Nguyễn Thanh L.

Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Hoài K, sinh ngày 27/8/2009.

Hiện nay con đang ở với chị T.

Khi ly hôn chị yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi con và không yêu cầu anh L phải cấp dưỡng nuôi con vì chị có đủ khả năng để nuôi con. Theo đơn khởi kiện, cũng như bản khai trước đây thì chị có yêu cầu anh L phải cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đồng, nhưng tại phiên hòa giải lập ngày 29/3/2018 và tại Tòa hôm nay chị xác định là chị xin thay đổi không yêu cầu anh L phải cấp dưỡng nuôi con nữa.

Về tài sản: Không có nên không yêu cầu Tòa giải quyết. Về nợ: Không có nên không yêu cầu Tòa giải quyết.

Ngoài ra, do anh Nguyễn Thanh L vắng mặt nên yêu cầu Tòa giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tòa án cùng chính quyền địa phương đã nhiều lần đến nhà anh Nguyễn Thanh L để tống đạt các văn bản tố tụng, anh L cố tình lẩn tránh, vắng mặt nên Tòa án không thể tiến hành các thủ tụng tố tụng như ghi lời khai, lập Biên bản về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và Biên bản hòa giải nên Tòa xét xử vắng mặt đối với anh L theo qui định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

1. Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn anh Nguyễn Thanh L. Bị đơn có địa chỉ và sinh sống ở xã C, huyện H, tỉnh Bình Thuận nên thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận, được pháp luật quy định tại Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

2. Về tố tụng: Xét bị đơn anh Nguyễn Thanh L đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án theo quy định của pháp luật, nhưng vẫn vắng mặt 02 lần tại phiên tòa không có lý do nên căn cứ vào Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn anh Nguyễn Thanh L.

3. Về nội dung:

+ Về hôn nhân: Hôn nhân của chị Nguyễn Thị Ngọc T và Nguyễn Thanh L có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị xã C, huyện H, tỉnh Bình Thuận theo Bản sao Giấy chứng nhận kết hôn số 132/2008, quyển số 01/2008 ngày 22/11/2008 của Ủy ban nhân dân xã C, huyện H, đây là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu xin ly hôn của chị T, Hội đồng xét xử thấy rằng: Trong vụ án này chị T khai ra nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là anh L làm không đưa tiền cho chị để nuôi con mà đưa hết cho mẹ chồng nên vợ chồng cải vã nhau. Vợ chồng không còn sống chung và quan hệ tình cảm từ năm 2010 đến nay. Xét mâu thuẫn của chị T và anh L không lớn. Tuy nhiên, thấy rằng anh, chị đã ly thân trong một thời gian dài nhưng các bên vẫn không hàn gắn được; khi Tòa án thông báo về yêu cầu ly hôn của chị T nhưng anh L không có ý kiến hay động tác gì để hàn gắn mà bỏ mặc; khi Tòa án tổ chức hòa giải đoàn tụ thì anh L vắng mặt không tham dự. Việc anh L không có ý kiến khi chị T xin ly hôn, không tham dự phiên hòa giải, phiên tòa vừa vi phạm nghĩa vụ bị đơn vừa đánh mất cơ hội hòa giải đoàn tụ tại Tòa án. Chứng tỏ, anh L không có thiện chí hòa giải tình cảm để hàn gắn quan hệ vợ chồng với chị T, mâu thuẫn vợ chồng của anh, chị không được cải thiện, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Như vậy, anh L đã tự khước từ quyền, lợi ích hợp pháp của mình nên căn cứ vào Khoản 1, Khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt anh L. Căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T.

+ Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Hoài K, sinh ngày 27/8/2009. Hiện nay con đang ở với chị T.

Khi ly hôn chị T yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi con chung tên Nguyễn Hoài K, sinh ngày 27/8/2009. Xét thấy, cháu K đã trên 7 tuổi khi hỏi nguyện vọng của cháu K thì cháu K yêu cầu được ở với mẹ là chị T, hiện nay chị T cũng đang trực tiếp nuôi dưỡng và trong thời gian qua chị T nuôi dưỡng con tốt. Căn cứ vào Khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình quy định “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”, nên yêu cầu nuôi con của chị T được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về cấp dưỡng nuôi con: Tại phiên tòa chị T xác định không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

+ Về tài sản: Không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

+ Về nợ chung: Không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Ngọc T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Anh Nguyễn Thanh L không phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Khoản 01 Điều 28, Điểm a Khoản 01 Điều 35, Điều 39, Điều 70, Điều 143, Điều 144, Điều 145, Điều 146, Điều 147, Khoản 1, Khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Ngọc T và anh Nguyễn Thanh L.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Hoài K, sinh ngày 27/8/2009 cho chị Nguyễn Thị Ngọc T trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Thanh L không phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh Nguyễn Thanh L được quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

3. Về tài sản và nợ: Không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Ngọc T phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm. Chị T đã nộp đủ 300.000đ theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số 0014918 ngày 17 tháng 01 tháng 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Bình Thuận, nên không phải nộp nữa.

Anh Nguyễn Thanh L không phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Quyền kháng cáo của chị Nguyễn Thị Ngọc T là 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án (ngày 28/5/2018).

Riêng anh Nguyễn Thanh L vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết công khai tại địa phương.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2018/HNGĐ-ST ngày 28/05/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:44/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Thuận Bắc - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về