Bản án 43/2021/HNGĐ-ST ngày 17/05/2021 về ly hôn 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÂM HÀ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 43/2021/HNGĐ-ST NGÀY 17/05/2021 VỀ LY HÔN 

Ngày 17 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 46/2021/TLST-HNGĐ ngày 23/02/2021 về việc: “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2021/QĐXXST – HNGĐ ngày 29 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trịnh Thị Thu H, sinh năm 1998. Địa chỉ: Xóm 2, thôn 2, xã M, huyện L, tỉnh Lâm Đ.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn có Luật sư Phạm Thị D – Văn phòng Luật sư Thùy Diện – thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Lâm Đồng.

2. Bị đơn: Anh Lê Thành N, sinh năm 1995. Địa chỉ: Thôn 3, xã M, huyện L, tỉnh L.

(Các đương sự có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và bản tự khai nguyên đơn chị Trịnh Thị Thu H trình bày: Chị xây dựng gia đình với anh N năm 2016 trên cơ sở tự nguyện, có thời gian tìm hiểu hai năm, có tổ chức lễ cưới theo phong tục, tập quán và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Mê Linh, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng vào ngày 05/10/2016 theo quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống chị sống hòa thuận, hạnh phúc một thời gian thì xẩy ra nhiều mâu thuẫu, nguyên nhân do anh N chồng chị tụ tập bạn bè ăn chơi đua đòi không lo làm ăn, bỏ bê vợ con, gia đình. Gia đình chồng cũng đã khuyên bảo nhiều lần nhưng anh N vẫn không sửa đổi bản thân. Khi chị góp ý thì anh chửi bới, xúc phạm, còn đánh chị. Từ tháng 1/2021 do quá áp lực căng thẳng, chị đã chuyển về nhà bố mẹ đẻ ở và sống ly thân với anh N từ tháng 01/2021 đến nay nhưng quan hệ vợ chồng không được cải thiện mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh N.

Về con chung: Vợ chồng chị có 02 con chung tên Lê Phương Tuệ A, sinh ngày 28/04/2017 và Lê Phương Tuệ A, sinh ngày 30/01/2020. Khi ly hôn, chị yêu cầu được nuôi dưỡng, giáo dục con chung Lê Phương Tuệ A, sinh ngày 30/01/2020; chị đồng ý giao con chung tên Lê Phương Tuệ A, sinh ngày 28/04/2017 cho anh N trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Chị không yêu cầu anh N phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Vợ chồng chị không có tài sản chung, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung, vợ chồng chị không có nợ chung, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo bản tự khai bị đơn anh Lê Thành N trình bày:

Anh xây dựng gia đình cùng chị H năm 2016 trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục, tập quán, có thời gian tìm hiểu 02 năm và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Mê Linh, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng vào ngày 05/10/2016. Từ khi kết hôn vợ chồng anh, chị chung sống hòa thuận, hạnh phúc được 4 năm, ngày 21/01/2021 vợ chồng xẩy ra mâu thuẫn nguyên nhân là do anh tụ tập bạn bà ham chơi bời, bỏ bê vợ con không chăm sóc gia đình. Hiện tại anh xác định tình cảm với gia đình vợ, con vẫn còn. Từ khi vợ anh bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở cho đến nay, mặc dù anh có gặp gỡ nói chuyện để vợ chồng đoàn tụ nhiều lần với chị H nhưng chị H không đồng ý. Nay chị H xin ly hôn, anh xác định mâu thuẫn vợ chồng chưa đến mức trầm trọng, anh mong chị H suy nghĩ lại để vợ chồng đoàn tụ để cùng nhau nuôi dạy con cái. Anh không đồng ý ly hôn với chị H.

Về con chung: Vợ chồng anh có 02 con chung tên Lê Phương Tuệ A, sinh ngày 28/04/2017 và Lê Phương Tuệ A, sinh ngày 30/01/2020. Khi ly hôn, anh yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con chung Lê Phương Tuệ A, sinh ngày 28/04/2017, anh đồng ý giao con chung là Lê Phương Tuệ A, sinh ngày 30/01/2020 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, vợ chồng anh không có tài sản chung, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung, vợ chồng anh không có nợ chung, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ do các đương sự giao nộp và tiến hành hòa giải nhưng không thành.

Tại phiên tòa, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh N do vợ chồng có quá nhiều mâu thuẫn hiện tại chị đã chuyển về nhà bố mẹ đẻ ở và sống ly thân với anh N từ tháng 01/2021 đến nay nhưng quan hệ tình cảm vợ chồng không được cải thiện, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng.

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Anh N thừa nhận sau khi kết hôn vợ chồng chung anh sống hòa thuận, hạnh phúc được 4 năm, năm 2018 đã xẩy ra mâu thuẫn vợ chồng do lỗi của bản thân anh tụ tập bạn bè ham chơi, bỏ bê không chăm sóc vợ con và gia đình. Khi chị H bỏ anh về nhà bố mẹ đẻ sinh sống thì anh N đã nhiều lần đến để gặp gỡ chị H đề nghị hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng chị H không đồng ý. Nay chị H xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng mục đích hôn nhân không đạt được chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh N. Khi ly hôn, chị H yêu cầu được nuôi dưỡng, giáo dục con chung Lê Phương Tuệ A, sinh ngày 30/01/2020; chị H đồng ý giao anh N nuôi dưỡng, giáo dục con chung Lê Phương Tuệ A, sinh ngày 28/04/2017. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung và nợ chung: Vợ chồng chị H không có tài sản chung và không có nợ chung, chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các quy định của pháp luật để chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng cũng như phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án theo hướng đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị H, xử cho chị H và anh N được ly hôn; về con chung: Đề nghị giao con chung Lê Phương Tuệ A cho anh N trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục; giao con chung là Lê Phương Tuệ A cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét.

Về án phí: Buộc chị H phải chịu án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm về việc ly hôn theo quy định của pháp luật.

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn:phát biểu: Đề nghị chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn để cho chị H và anh N được ly hôn; về con chung đề nghị giao con chung Lê Phương Tuệ A, sinh ngày 28/04/2017 cho anh N trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục; giao con chung là Lê Phương Tuệ A, sinh ngày 30/01/2020 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị H, anh N không có tài sản chung và nợ chung.

Về án phí: Buộc chị H phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm về việc ly hôn theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận cũng như ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh N xây dựng gia đình với nhau năm 2016 trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục, tập quán và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Mê Linh, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng vào ngày 05/10/2016. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống chị sống hòa thuận, hạnh phúc một thời gian đến năm 2018 xẩy ra mâu thuẫn nguyên nhân do anh N chồng chị H ăn chơi đua đòi tụ tập bạn bè không lo làm ăn, không chăm sóc gia đình nên chị bỏ về nhà bố mẹ để sinh sống. Vì anh N hứa sẽ sửa đổi bản thân, thương yêu gia đình nên chị H lại trở về tiếp tục sinh sống cùng anh N nhưng khi về sinh sống cùng anh N thì anh N vẫn không từ bỏ mà chứng nào tật đó nên từ tháng 01/2021, chị H tiếp tục bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở cho đến nay. Quá trình sống ly thân mặc dù vợ chồng có gặp gỡ nhau nói chuyện để vợ chồng hàn gắn, đoàn tụ nhưng tình cảm vợ chồng anh, chị vẫn không cải thiện tốt hơn. Nay chị H xác định, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng kéo dài, tình cảm vợ chồng không còn mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh N.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa anh N thừa nhận sau khi kết hôn vợ chồng anh chung sống hòa thuận, hạnh phúc được 4 năm, vào 01/2021 xẩy ra mâu thuẫn do lỗi của bản thân anh ham chơi, bỏ bê không chăm sóc vợ con và gia đình. Trước đây anh có nghiện ma túy đá nhưng đã từ bỏ không sử dụng nữa. Hiện tại anh xác định tình cảm với vợ con vẫn còn. Khi chị H bỏ anh về nhà bố mẹ đẻ sinh sống thì anh đã nhiều đến để gặp gỡ chị H đề nghị hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng chị H kiên quyết không đồng ý. Anh xác định mâu thuẫn vợ chồng chưa đến mức trầm trọng, anh mong chị H suy nghĩ lại để vợ chồng đoàn tụ để cùng nhau nuôi dạy con cái. Anh không đồng ý ly hôn với chị H.

Xét thấy, mâu thuẫn giữa vợ chồng chị H và anh N là có trên thực tế nguyên nhân anh N là người ham chơi theo bạn bè bài bạc, bỏ bê vợ con, bản thân anh N có thời gian sử dụng ma túy đá trước khi kết hôn do vậy dẫn đến bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không có sự chia sẽ thông cảm với nhau trong cuộc sống, vợ chồng không có tiếng nói chung. Mặc dù đã được gia đình động viên, hòa giải nhưng anh N vẫn không từ bỏ, hơn nữa mối quan hệ giữa chị H và gia đình anh N không tốt cũng đã gây nhiều áp lực cho chị H, do vậy chị H đã chuyển về sinh sống ở nhà bố mẹ đẻ để sinh sống từ tháng 01 năm 2021 cho đến nay nhưng quan hệ vợ chồng anh, chị vẫn không được cải thiện. Nay chị H yêu cầu ly hôn thì anh N không đồng ý vì anh cho rằng mâu thuẫn vợ chồng anh chưa đến mức trầm trọng. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cũng đã nhiều lần triệu tập làm việc, thông báo hòa giải để các đương sự có điều kiện trao đổi, thống nhất để các bên đương sự có điều kiện cải thiện hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng đến nay bản thân anh N vẫn không có biện pháp để cải thiện quan hệ tình cảm vợ chồng tốt hơn, còn chị H vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn. Tại phiên tòa anh N giữ nguyên ý kiến không đồng ý ly hôn với chị H. Do đó, nếu cứ kéo dài tình trạng hôn nhân như hiện tại cũng không thể mang lại hạnh phúc cho các bên đương sự. Vì vậy, căn cứ Điều 53 và khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cần chấp nhận đơn xin ly hôn của chị H, giải quyết cho chị H và anh N được ly hôn là hoàn toàn phù hợp.

[2] Về con chung: Vợ chồng chị có 02 con chung tên Lê Phương Tuệ A, sinh ngày 28/04/2017 và Lê Phương Tuệ A, sinh ngày 30/01/2020. Khi ly hôn, chị H yêu cầu được nuôi dưỡng, giáo dục con chung Lê Phương Tuệ A, sinh ngày 30/01/2020; anh N có nguyện vọng nuôi con chung là tên là Lê Phương Tuệ A, sinh ngày 28/04/2017. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Xét thấy, nguyện vọng anh N và chị H về việc nuôi con chung đều chính đáng, nhưng khi giao con chung cho các bên có trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng cần xem xét đến điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng và phát triển toàn diện về mọi mặt của các con chung. Hiện tại, anh N và chị H đều có nghề nghiệp ổn định, anh N làm nghề hớt tóc, chị H làm nghề bánh ngọt. Tại phiên tòa, anh N và chị H giữ nguyên ý kiến thống nhất về việc nuôi con chung giữa chị và anh N là hoàn toàn tự nguyện chị H cho biết cháu Tuệ Anh ở với bố vẫn được chăm sóc nuôi dưỡng đảm bảo, hiện cháu vẫn đi học và phát triển thể chất tinh thần bình thường. Còn con chung Tuệ An sinh năm 2000 còn nhỏ cần nhiều sự chăm sóc, nuôi dưỡng của mẹ để phát triển về mọi mặt ổn định cho con chung.

Vì vậy, để đảm bảo điều kiện nuôi dưỡng và chăm sóc, phát triển về mọi mặt ổn định cho các con chung, đồng thời cũng không làm ảnh hưởng đến tình cảm và trách nhiệm của người được làm cha, mẹ của chị H và anh N đối với các con chung, căn cứ khoản 2, khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, cần giao con chung là giao con chung Lê Phương Tuệ A, sinh ngày 28/04/2017 cho anh N trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục; giao con chung Lê Phương Tuệ A, sinh ngày 30/01/2020 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con chung cho đến khi con chung đủ 18 tuổi là phù hợp. Việc cấp dưỡng nuôi con chung do chị H, anh N không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về tài sản chung: Vợ chồng chị H, anh N không có nợ chung, chị H, anh N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về nợ chung: Vợ chồng chị H, anh N không có nợ chung, chị H, anh N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị H phải chịu 300.000đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 53, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 147, Điều 203 và Điều 266 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.;

Xử :

1. Chấp nhận đơn xin ly hôn của chị H, xử cho chị H và anh N được ly hôn.

2. Về con chung: Giao con chung giao con chung Lê Phương Tuệ A, sinh ngày 28/04/2017 cho anh N trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung cho đến khi con chung đủ 18 tuổi; giao con chung Lê Phương Tuệ A, sinh ngày 30/01/2020 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Quyền đi lại thăm nom con, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con; thay đổi mức cấp dưỡng được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

3. Về án phí: Buộc chị H phải chịu 300.000đồng tiền án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm về việc ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) chị H đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2016/0015091 ngày 23/02/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Chị chị H đã nộp đủ án phí.

Báo cho nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án (17/5/2021) để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2021/HNGĐ-ST ngày 17/05/2021 về ly hôn 

Số hiệu:43/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lâm Hà - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về