Bản án 43/2018/HS-ST ngày 14/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ML, TỈNH SL

BẢN ÁN 43/2018/HS-ST NGÀY 14/05/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện ML, tỉnh SL xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 45/2018/TLST-HS ngày 18 tháng 4 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:   49/2018/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 5 năm 2018  đối với bị cáo:

Quàng Văn M, sinh ngày 31/12/1988, tại Chiềng H, ML, SL; Nơi ĐKHKTT: Bản Nong Q, xã Chiềng H, huyện ML, tỉnh SL; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hoá: 4/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Quàng Văn B, sinh 1954 và bà Lường Thị Q, sinh 1954; có vợ là Quàng Thị L, sinh 1988 và có ba con lớn sinh 2009, nhỏ sinh 2014; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/01/2018; Bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Cầm Kim Loan, Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh SL. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Quàng Văn M bị Viện kiểm sát nhân dân huyện ML truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào hồi 00 giờ 50 phút ngày 02/01/2018, tại nhà của Quàng Văn M ở bản Nong Q, xã Chiềng H, huyện ML, tỉnh SL, Công an phát hiện và bắt quả tang Quàng Văn M, sinh ngày 31/12/1988 đang có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ:

04 gói nhỏ được gói bằng giấy báo có chữ bên trong chứa cục bột màu trắng và 01 gói nhỏ được gói bằng giấy nilon màu xanh bên trong chứa cục bột màu trắng, do Quàng Văn M lấy dưới chăn trên đầu giường của M giao nộp, Quàng Văn M khai là Hêrôin cất giữ nhằm mục đích để sử dụng;

01 xi lanh nhựa màu trắng, loại 3cc đã qua sử dụng.

Ngày 02/01/2018 cơ quan Công an đã thành lập hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định, kết quả: 01 gói nhỏ được gói bằng giấy nilon màu xanh bên trong chứa chất bột màu trắng có khối lượng 0,05 gam, lấy 0,05 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu M1; 04 gói nhỏ được gói bằng giấy báo có chữ bên trong chứa cục bột màu trắng có khối lượng 0,12 gam, lấy 0,05 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu M2. Cơ quan Công an ra quyết định trưng cầu giám định chất ma túy và loại ma túy.

Tại kết luận giám định số: 154/KLGĐ ngày 11/10/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh SL, kết luận: Mẫu ký hiệu M1, M2 là chất ma túy, loại chất Hêrôin.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Quàng Văn M không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.

Quá trình điều tra Quàng Văn M khai nhận: Sáng ngày 01/01/2018 Quàng Văn M đi đám cưới ở bản PhaX, xã Chiềng H, huyện ML, tỉnh SL, tại đây Quàng Văn M có mua của một người đàn ông không biết tên và địa chỉ 01 gói Hêrôin giá 400.000, đồng. Sau đó mang về nhà chia nhỏ thành 05 gói cất giấu dưới chăn trên đầu giường để sử dụng dần, ngày 02/01/2018 khi Quàng Văn M đem xi lanh ra rửa để sử dụng thì bị Công an phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.

Về nguồn gốc ma túy Quàng Văn M khai mua của một người đàn ông không biết tên, địa chỉ với số tiền 400.000, đồng. Không có căn cứ điều tra về người bán ma túy, không có chứng cứ nào khác để xác định lời khai của Quàng Văn M.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Quàng Văn M đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Bản cáo trạng số: 244/KSĐT-MT ngày 17 tháng 4 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện ML truy tố bị cáo Quàng Văn M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Quàng Văn M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015:

Xử phạt Quàng Văn M từ 18 tháng đến 24 tháng tù;

Không phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo do không có tài sản.

Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu huỷ: Vỏ phong bì cũ; giấy gói cũ; 01 xi lanh nhựa màu trắng, loại 3cc đã qua sử dụng; 0,07 gam Hêrôin (đã được niêm phong);

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên Quyết định truy tố. Bị cáo, người bào chữa nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo phát biểu lời bào chữa đưa ra những tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo là có căn cứ chấp nhận.

Lời nói sau cùng của bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện ML, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện ML, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bào chữa không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên toà bị cáo Quàng Văn M thừa nhận: Hồi hồi 00 giờ 50 phút ngày 02/01/2018 Quàng Văn M đã thực hiện hành vi cất giữ trái phép 05 gói Hêrôin có khối lượng 0,17 gam, với mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang cùng vật chứng.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả điều tra được chứng minh như sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Vật chứng thu giữ trong vụ án; Thông báo kết quả giám định.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận:

Bị cáo Quàng Văn M đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản nên không phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo theo quy định của khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Hội đồng xét xử xét thấy: Tính chất hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng nên cần có mức hình phạt nghiêm khắc nhằm giáo dục bị cáo.

Về nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự. Tại phiên toà bị cáo thật thà khai báo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[3]. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu huỷ: Vỏ phong bì cũ; giấy gói cũ; 01 xi lanh nhựa màu trắng, loại 3cc đã qua sử dụng; 0,07 gam Hêrôin (đã được niêm phong);

Về nguồn gốc ma túy Quàng Văn M khai mua của một người đàn ông không biết tên, địa chỉ với số tiền 400.000, đồng. Không có căn cứ điều tra về người bán ma túy, không có chứng cứ nào khác để xác định lời khai của Quàng Văn M nên bị cáo phải chịu trách nhiệm về số ma túy.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của Pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015:

Tuyên bố bị cáo Quàng Văn M phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Xử phạt bị cáo Quàng Văn M 22 (hai mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 02/01/2018.

Không phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu huỷ: Vỏ phong bì cũ; giấy gói cũ; 01 xi lanh nhựa; 0,07 gam Hêrôin (đã được niêm phong). Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/4/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện ML, tỉnh SL.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về Án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Quàng Văn M phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 14/5/2018.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2018/HS-ST ngày 14/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:43/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về