Bản án 43/2017/HSST ngày 19/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 43/2017/HSST NGÀY 19/09/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 9 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 43/2017/HSST ngày 18 tháng 8 năm 2017, đối với bị cáo:

HOÀNG BÁ H, sinh ngày 28-12-1972, tại tỉnh Nghệ An; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Xóm X, xã Y, huyện T, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Buôn Đ, xã D, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; dân tộc: Kinh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/12; con ông Hoàng Bá V (đã chết), con bà Nguyễn Thị M (đã chết); vợ là Đinh Thị N và có 02 con; con lớn sinh năm 2000, con nhỏ sinh năm 2005; tiền án: 02 tiền án về tội "Trộm cắp tài sản", tiền sự: Không;

Nhân thân: Bản án số 64/HSST ngày 13/9/2000 bị Tòa án nhân dân (TAND) huyện Krông Buk (nay là thị xã Buôn Hồ) xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản công dân”. Tại Bản án số 640/2001/HSPT ngày 07/11/2001 bị Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại Đà Nẵng xử phạt 03 năm tù về tội “Trốn khỏi nơi giam”, tổng hợp hình phạt với Bản án sơ thầm số 64/HSST ngày 13/9/2000 của Tòa TAND huyện Krông Buk bị cáo phải chấp hành là 04 năm 06 tháng tù. Chấp hành án tại trại giam Đắc Trung. Ngày 28/6/2004 chấp hành xong hình phạt. Ngày 26/6/2008 phạm tội “Trộm cắp tài sản” bị TAND tỉnh Đăk Lăk xử phạt 09 tháng tù tại Bản án số 266/2008/HSPT ngày 25/11/2008, chấp hành án tại trại giam Đắc Trung. Tại Bản án số 07/2011/HSST ngày 29/3/2011 bị TAND huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành án tại trại giam Gia Trung. Ngày 23/5/2012 chấp hành án xong. Tại Bản án số 37/2013/HSPT ngày 09/9/2012 bị TAND tỉnh Kon Tum xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành án tại trại giam Gia Trung. Ngày 26/10/2015 chấp hành án xong.

Bị bắt tạm giam từ ngày 05-5-2017 cho đến nay - Có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại: Chị Trần Thị Thu H, sinh năm 1986, có mặt

Địa chỉ: Số A đường B, TDP C, phường Đ, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài tiệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do lười lao động nhưng muốn có tiền tiêu xài nên khoảng 04 giờ ngày 08/4/2017 Hoàng Bá H đi tìm kiếm tài sản để trộm cắp. Khi đi ngang nhà chị Trần Thị Thu H ở TDP C, phường Đ, thị xã B, phát hiện cửa sau khóa nhưng có khe hở nên H lại gần giật cửa ra, nhưng không được. Lúc này H nhìn thấy sợi dây thép cuốn quanh cái chổi dựng cạnh nhà tắm nên H tháo lấy sợi dây thép dùng mở cửa rồi dùng đèn pin mang theo soi sáng để lục tìm tài sản thì phát hiện trong hộc tủ quầy bán thuốc tây của chị H có một chùm chìa khóa nên H mở hộc tủ bên cạnh ra lấy được 60.000 đồng. Sau đó H đi vào phòng ngủ lấy một giỏ xách treo trên móc gắn tường đem ra ngoài lục tìm thấy một chiếc ví da màu hồng bên trong có 280.000 đồng rồi H tiếp tục quay lại phòng ngủ của chị H thấy chiếc điện thoại nhãn hiệu Lenovo màu đồng thì lấy bỏ vào túi quần và đi ra ngoài bằng cửa sau. Khi ra ngoài đường H kiểm tra thì thấy chiếc điện thoại cài mật khẩu, nắp sau bị bể nên H vứt chiếc điện thoại phía bên đường cạnh nhà chị H.

Vật chứng vụ án Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ, thu giữ: 01 bật lửa có nắp bật phía trên (loại bằng điện, xài ga) có hình chữ nhật dài 07 cm, rộng 02 cm, dày 01 cm, màu vàng, bên  ngoài có logo của thuốc lá 555, phần phía dưới đáy có 01 đèn pin nhỏ, bên cạnh dọc thân có 2 nút bấm màu đỏ; 01 giỏ xách màu đỏ, chất liệu da có dây đeo bằng sắt màu trắng, bên ngoài có 02 sọc dọc màu trắng dài 20cm, cao 10 cm rộng 07 cm; 01 ví da màu hồng có 01 ngăn kéo dài 18 cm, cao 06 cm, rộng 03 cm.

Hiện nay Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ đã trả lại: 01 giỏ xách màu đỏ, 01 ví màu hồng đặc điểm như trên cho chị Trần Thị Thu H là chủ sở hữu.

Đối với sợi dây kim loại được lấy ra từ cây chổi, sau khi mở khóa cửa H ném vào đống gạch sau nhà chị H và chiếc điện thoại nhãn hiệu Lenovo màu đồng H vứt phía bên đường cạnh nhà chị H. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã đã phối hợp với chính quyền địa phương xác minh, truy tìm nhưng không thấy.

Bản kết luận định giá tài sản số 274/HĐĐG ngày 05/05/2017, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk kết luận: chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Lenovo, màu đồng, loại Vibe P1 Pro P1A42 đã qua sử dụng có giá trị tại thời điểm định giá là 2.700.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 44/KSĐT –HS, ngày 17 tháng 8 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ đã truy tố bị cáo về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1, điểm c khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ phân tích, chứng minh hành vi phạm tội, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1, điểm c khoản 2 Điều 138; điểm g, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Hoàng Bá H từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

* Về các biện pháp tư pháp:

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu, tiêu hủy: 01 bật lửa có nắp bật phía trên, phần phía dưới đáy có 01 đèn pin nhỏ (là công cụ phạm tội không có giá trị sử dụng).

Áp dụng khoản 2 Điều 41 Bộ luật hình sự; điểm b, khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ đã trả lại: 01 giỏ xách màu đỏ, 01 ví màu hồng cho chị Trần Thị Thu H là chủ sở hữu.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường. Tại phiên tòa, bị cáo không có tranh luận, bào chữa gì nhất trí với nội dung của bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ truy tố bị cáo về tội Trộm cắp tài sản.

Người bị hại tại phiên tòa thống nhất với phần luận tội của đại diện Viện kiểm sát và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường về trách nhiệm dân sự.

Trong phần nói lời sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện, chứng cứ, ý kiến kiểm sát viên, của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như hành vi mà Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk truy tố bị cáo theo nội dung bản cáo trạng. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Buôn Hồ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

2] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Vào khoảng 04 giờ ngày 08/4/2017, tại nhà chị Trần Thị Thu H ở TDP C, phường Đ, thị xã B, bị cáo Hoàng Bá H đã có hành vi lén lút, bí mật chiếm đoạt của chị H số tiền 340.000 đồng và 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Lenovo trị giá 2.700.000 đồng. Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 3.040.000 đồng.

[3] Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng những tình tiết giảm nhẹ và hình phạt được áp dụng đối với bị cáo là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Như vậy đã có đủ cơ sở kết luận rằng hành vi của bị cáo đã phạm vào tội: “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1, điểm c khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Khoản 1, điểm c khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

c) Tái phạm nguy hiểm;

[4] Bị cáo Hoàng Bá H là người có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi, có khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của bản thân trong cuộc sống. Bị cáo biết được rằng tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Mọi hành vi trái pháp luật xâm phạm đến tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác đều bị pháp luật hình sự trừng trị, nhưng vì với bản chất lười lao động lại muốn có tiền để tiêu xài cá nhân, bị cáo đã chuẩn bị phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản của công dân, xâm hại đến tình hình trật tự trị an tại địa phương, gây bức xúc trong dư luận. Do vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi của mình gây ra.

[5] Bị cáo có nhân thân xấu, là người đã có 02 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”. Quá trình chấp hành xong hình phạt tù, khi hòa nhập lại với cộng đồng bị cáo đã không chịu sửa chữa, tu dưỡng để trở thành người công dân có ích cho xã hội, mà bị cáo còn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội “Trộm cắp tài sản”, nên hành vi phạm tội của bị cáo thuộc tình tiết định khung tăng nặng là tái phạm nguy hiểm, nên cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo mới đủ tác dụng răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội.

[6] Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo; phạm tội gây thiệt hại không lớn, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm g, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.

[7] Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự:

[7.1] Cần tịch thu tiêu hủy 01 bật lửa có nắp bật phía trên, phần phía dưới đáy có 01 đèn pin nhỏ (là công cụ phạm tội không còn giá trị sử dụng), là phù hợp với điểm a khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.

[7.2] Việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ đã trả lại: 01 giỏ xách màu đỏ, 01 ví màu hồng cho chị Trần Thị Thu H là chủ sở hữu, là phù hợp với khoản 2 Điều 41 Bộ luật hình sự, điểm b khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự, nên cần chấp nhận.

[7.3] Cần chấp nhận việc người bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường về trách nhiệm dân sự

[8] Về án phí: Bị cáo H phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Hoàng Bá H phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 2 Điều 138; điểm g, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Hoàng Bá H 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tại giam ngày 05-5-2017.

* Về các biện pháp tư pháp:

- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự. Tuyên tịch thu, tiêu hủy 01 bật lửa có nắp bật phía trên, phần phía dưới đáy có 01 đèn pin nhỏ (là công cụ phạm tội không có giá trị sử dụng).

- Áp dụng khoản 2 Điều 41 Bộ luật hình sự; điểm b, khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự. Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ đã trả lại 01 giỏ xách màu đỏ, 01 ví màu hồng cho chị Trần Thị Thu H là chủ sở hữu.

- Chấp nhận việc người bị hại chị Trần Thị Thu H không yêu cầu bị cáo Hoàng Bá H phải bồi thường về trách nhiệm dân sự.

* Về án phí: Căn cứ theo Điều của 99 BLTTHS và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Hoàng Bá H phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

* Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

256
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2017/HSST ngày 19/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:43/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Buôn Hồ - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về