Bản án 415/2019/HS-ST ngày 23/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 415/2019/HS-ST NGÀY 23/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 396/2019/TLST-HS ngày 06 tháng 11 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 427/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2019, đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Diễm M, sinh năm 1986 tại thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: 101 Đường 19, khu phố 5, phường B, quận T, thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 5/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Hữu Đ, sinh năm 1966 và mẹ không rõ; có chồng là Nguyễn Hải Đ, sinh năm 1986, đã ly hôn và có 03 con, lớn nhất sinh năm 2007, nhỏ nhất sinh năm 2019; tiền án: Ngày 05/10/2012 bị Tòa án nhân dân thị xã D, tỉnh Bình Dương xử phạt 5.000.000 đồng về Tội đánh bạc, chưa chấp hành xong hình phạt và chưa đóng án phí; tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 18/8/2019, có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng: Bế Văn C, sinh năm 1989; vắng mặt.

- Người chứng kiến: Hoàng Thị Mỹ H, sinh năm 1979; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Nguyễn Thị Diễm M sống như vợ chồng với Bế Văn C cả hai đều nghiện ma túy và thuê trọ ở tại địa chỉ 27/35 khu phố B, phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương.

Khoảng 16 giờ ngày 18/11/2018 (thời điểm M mang thai 04 tháng), M sử dụng điện thoại di động hiệu Nokia 1034 có sim số 0967528193 hẹn và gặp tên N (chưa rõ nhân thân, lai lịch) tại quán nước mía gần phòng trọ của M. Gọi điện xong, M đi bộ ra quán nước mía mua 600.000 đồng ma túy, được 06 gói ma túy bảo quản trong 06 gói nylon hàn kín. Mua xong M đem về phòng trọ lấy 01 gói ma túy ra sử dụng cùng với C, còn 05 gói M bỏ vào cái bóp màu xanh để trên nệm ở góc phòng.

Đến 15 giờ ngày 19/11/2018, Công an phường A kiểm tra phòng trọ của M phát hiện 05 gói nylon hàn kín bên trong có tinh thể màu trắng, lập biên bản biên bản người có hành vi phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng.

Căn cứ bản kết luận giám định số 06/MT-PC09 ngày 22/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể gửi đến giám định là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng là 0,1875 gam (M1), 0,3373 gam (M2).

Ngày 20/02/2019 Nguyễn Thị Diễm M được tại ngoại, trốn khỏi địa phương. Ngày 25/02/2019 Cơ quan cảnh sát điều tra công an thị xã Dĩ An, quyết định truy nã bị can. Ngày 28/02/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An tạm đình chỉ điều tra vụ án và tạm đình chỉ điều tra bị can đối với Nguyễn Thị Diễm M về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Ngày 18/8/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An phối hợp với Công an phường A bắt giữ Nguyễn Thị Diễm M, theo Quyết định truy nã và đưa về trụ sở Công an phường A, qua kiểm tra phát hiện M cất giấu 02 gói ma túy trong áo ngực trái. M khai nhận là ma túy, M đến ngã ba chùa Cao Đài gặp và mua của người tên Quyên (chưa rõ nhân thân, lai lịch) 600.000 đồng được 02 gói ma túy. Mua xong, M gặp Trần Trường A và nhờ A chở đi tìm phòng trọ để thuê. Khi đến đường Nguyễn Tri P đoạn trước tiệm vàng Hoàng Q thuộc khu phố B, phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương thì bị bắt giữ.

Cơ quan cảnh sát điều tra ra quyết định truy nã, phục hồi điều tra vụ án hình sự, phục hồi điều tra bị can và ra lệnh tạm giam.

Căn cứ kết luận giám định số 634/MT-PC09 ngày 27/8/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể gửi đến giám định là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng là 1,4876 gam.

Ngày 16/9/2019 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An ra quyết định nhập vụ án khởi tố ngày 28/11/2018 với vụ án khởi tố ngày 13/9/2019.

Vật chứng thu giữ: 05 gói nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng; 02 gói nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1034, sim số 0967528193; 01 bóp màu xanh; 01 điện thoại di động Oppo A33W màu đen không sim số. Đối với Bế Văn C và Trần Trường A có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Công an thị xã D phạt mỗi đối tượng số tiền 750.000 đồng.

Đối với đối tượng tên N và tên Q (chưa rõ nhân thân, lai lịch) bán ma túy cho M, tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Tại cáo trạng số 411/CT-VKS ngày 05 tháng 11 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Thị Diễm M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Diễm M mức án từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy đối với 01 bì thư đã niêm phong bên trong chứa ma túy loại Methamphetamine là mẫu vật hoàn lại sau giám định; 01 cái bóp màu xanh; sim số 0967528193.

Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1034; 01 điện thoại di động Oppo A33W màu đen không sim số.

Tại phiên tòa, trong phần thực hiện nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng không khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Khoảng 15 giờ ngày 19/11/2018, Công an phường An Bình kiểm tra phòng trọ, địa chỉ 27/35 khu phố B, phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương do Nguyễn Thị Diễm M thuê, phát hiện M đang cất giữ 05 gói ma túy nên lập biên bản người có hành vi phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng.

Căn cứ bản kết luận giám định số 06/MT-PC09 ngày 22/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể gửi đến giám định là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng là 0,1875 gam (M1), 0,3373 gam (M2). Bị cáo Nguyễn Thị Diễm M, do mang thai và được tại ngoại, bỏ trốn khỏi địa phương.

Ngày 18/8/2019, trước tiệm vàng H tại đường N, thuộc khu phố B, phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương, bắt giữ M theo Quyết định truy nã và phát hiện M cất giấu 02 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng trong áo ngực trái.

Căn cứ bản kết luận giám định số 634/MT-PC09 ngày 27/8/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể gửi đến giám định là ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng là 1,3432 gam (M1), 0,1444 gam (M2).

Hành vi của bị cáo tàng trữ 05 gói ma túy, loại Methamphetamine, trọng lượng 0,1875 gam (M1), 0,3373 gam (M2) vào ngày 19/11/2018 và 02 gói ma túy, loại Methamphetamine, trọng lượng 1,3432 gam (M1), 0,1444 gam (M2) vào ngày 18/8/2019 đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 411/CT–VKS ngày 05 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến vai trò của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tiền án chưa được xóa án tích, tiếp tục phạm tội mới là tình tiết tăng nặng theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo được xem xét khi quyết định hình phạt: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải, phạm tội trong giai đoạn đang mang thai và nuôi con nhỏ là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm n, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội.

[6] Về nhân thân: Nhân thân xấu nghiện ma túy, có 01 tiền án.

[7] Xử lý vật chứng:

- Xét 01 (một) bì thư đã niêm phong bên trong có chứa 0,1875 gam (M1), 0,3373 gam (M2) Methamphetamine; 01 bì thư đã niêm phong bên trong có chứa 1,4876 gam Methamphetamine mẫu vật hoàn lại sau giám định là chất nhà nước cấm; 01 cái bóp màu xanh; sim số 0967528193 không có giá trị sử dụng nên cần tuyên tịch thu tiêu hủy. - Xét 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1034; 01 điện thoại di động Oppo A33W màu đen không sim số thu giữ từ vụ án cần tuyên tịch thu sung quỹ nhà nước.

[8] Mức hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

[9] Đối với Bế Văn C và Trần Trường A có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Công an thị xã Dĩ An phạt mỗi đối tượng số tiền 750.000 đồng.

[10] Đối với N và Q bán ma túy cho M, chưa rõ nhân thân, lai lịch tiếp xác minh làm rõ xử lý sau.

[11] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Diễm M phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 249; điểm n, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Diễm M 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 18/8/2019.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư đã niêm phong bên trong có chứa 0,3882 gam ma túy loại Methamphetamine; 01 bì thư đã niêm phong bên trong có chứa 1,3282 gam ma túy loại Methamphetamine (mẫu vật hoàn lại sau giám định); 01 bóp màu xanh; sim số 0967528193.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1034; 01 điện thoại di động Oppo A33W màu đen không sim số.

(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/11/2019, bút lục 148).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Thị Diễm M phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 415/2019/HS-ST ngày 23/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:415/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về