Bản án 41/2017/HC-ST ngày 28/07/2017 về khiếu kiện quyết định bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 41/2017/HC-ST NGÀY 28/07/2017 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƯ

Ngày 28 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số: 59/2017/TLST-HC ngày 11 tháng 5 năm 2017 về việc: “Khiếu kiện quyết định về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2017/QĐXXST-HC ngày 13 tháng 7 năm 2017 giữa các đương sự:

1. Người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1964 (Vắng mặt). Địa chỉ: Khu phố 6, thị trấn A, huyện P, tỉnh Kiên Giang.

- Người đại diện hợp pháp của người khởi kiện: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1975 - Theo văn bản ủy quyền ngày 18/5/2017 (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

Địa chỉ: Số 124C đường 2/9, phường 11, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

2. Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện P, tỉnh Kiên Giang.

- Người đại diện hợp pháp của người bị kiện: Ông Đinh Khoa T – Chức vụ: Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện P (Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt).

Địa chỉ: Số 04 đường 30/4, khu phố 02, thị trấn D, huyện P, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ kiện, người khởi kiện bà Nguyễn Thị T và người đại diện hợp pháp ông Nguyễn Văn H trình bày:

Ngày 27/6/2014 UBND huyện P ban hành Quyết định 3304/QĐ-UBND thu hồi của bà Nguyễn Thị T diện tích 434,30m2 đất trồng cây lâu năm tại khu phố 6, thị trấn A, huyện P, tỉnh Kiên Giang để xây dựng dự án Khu phức hợp du lịch sinh thái Bãi Khem.

Ngày 06/3/2017 UBND huyện P ban hành Quyết định 2237/QĐ-UBND bồi thường, hỗ trợ diện tích đất 434,30m2 còn lại cho bà Nguyễn Thị T số tiền 225.836.000 đồng (Hai trăm hai mươi lăm triệu, tám trăm ba mươi sáu nghìn đồng). Trong đó: Bồi thường về đất đai 56.459.000 đồng (Năm mươi sáu triệu, bốn trăm năm mươi chín nghìn đồng); Hỗ trợ đất đai 169.377.000 đồng (Một trăm sáu mươi chín triệu, ba trăm bảy mươi bảy nghìn đồng).

Bà T cho rằng Quyết định 2237/QĐ-UBND ngày 06/3/2017 của UBND huyện P bồi thường, hỗ trợ cho bà T chưa đúng theo quy định của pháp luật khi Nhà nước thu hồi đất. Cụ thể:

Căn cứ vào số tiền bồi thường, hỗ trợ cho bà T theo Quyết định 2237/QĐ-UBND ngày 06/3/2017 của UBND huyện P thì đất của bà T được bồi thường với giá đất theo Quyết định 31/2013/QĐ-UBND ngày 20/12/2013 của UBND tỉnh Kiên Giang bằng 130.000 đồng/m2, giá đất nông nghiệp trồng cây lâu năm tại vị trí 2. Nhưng tại thời điểm năm 2017, quyết định này đã hết hiệu lực và được thay thế bởi Quyết định 35/2014/QĐ-UBND ngày 22/12/2014 của UBND tỉnh Kiên Giang về việc ban hành quy định Bảng giá đất đối với các loại đất trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, Quyết định 04/2016/QĐ-UBND ngày 15/01/2016 của UBND tỉnh Kiên Giang về việc quy định hệ số điều chỉnh giá đất trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

Căn cứ Luật Đất đai năm 2013 thì UBND huyện P phải khảo sát giá đất theo thị trường cho từng dự án để bồi thường, hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi.

Quyết định 2237/QĐ-UBND ngày 06/3/2017 của UBND huyện P không hỗ trợ ổn định đời sống cho gia đình bà T theo quy định tại Quyết định 22/2015/QĐ-UBND ngày 17/6/2015 của UBND tỉnh Kiên Giang quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

Bà T khởi kiện yêu cầu TAND tỉnh Kiên Giang giải quyết:

- Hủy Quyết định 2237/QĐ-UBND ngày 06/3/2017 của UBND huyện P về việc bổ sung bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dự án Khu phức hợp du lịch sinh thái Bãi Khem, tại thị trấn A, huyện P, tỉnh Kiên Giang;

- Buộc UBND huyện P ban hành quyết định bồi thường, hỗ trợ cho bà Nguyễn Thị T theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình giải quyết vụ kiện, người bị kiện UBND huyện P đã được tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về việc mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại, Quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án, nhưng không có văn bản nêu ý kiến về yêu cầu khởi kiện của bà T, không cung cấp tài liệu, chứng cứ liên quan đến việc ban hành quyết định bị kiện. Đồng thời có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng nên không ghi nhận được ý kiến của người bị kiện.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Ngày 25/7/2017 ông Nguyễn Văn H đại diện cho bà Nguyễn Thị T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Kiểm sát viên phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội thẩm nhân nhân, Thư ký Tòa án và việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng:

Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân thủ đúng quy định của Luật Tố tụng hành chính tại phiên tòa sơ thẩm.

Thẩm phán thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, thu thập chứng cứ đủ điều kiện để giải quyết vụ kiện.

Người khởi kiện, người đại diện hợp pháp của người khởi kiện: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa đã chấp hành đúng các quy định của Luật Tố tụng hành chính.

Ngày 25/7/2017, ông Nguyễn Văn H có đơn xin xét xử vắng mặt, do đó căn cứ vào khoản 1 Điều 158 Luật Tố tụng hành chính Tòa án xét xử vắng mặt ông H là đúng quy định.

Đối với người bị kiện: Trong quá trình giải quyết vụ án, Chủ tịch UBND huyện P có đơn xin xét xử vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt là đúng quy định tại khoản 1 Điều 158 Luật Tố tụng hành chính. Tuy nhiên, Người bị kiện chưa chấp hành nghĩa vụ về cung cấp tài liệu, chứng cứ quy định tại Điều 78 Luật Tố tụng hành chính mặc dù đã nhận được Thông báo thụ lý của Tòa án. Việc vắng mặt của người bị kiện gây khó khăn trong quá trình giải quyết vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện bà Nguyễn Thị T, hủy Quyết định 2237/QĐ-UBND ngày 06/3/2017 của UBND huyện P và buộc UBND huyện P ban hành quyết định bồi thường, hỗ trợ cho bà Nguyễn Thị T theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ kiện được thẩm tra tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Quyết định 2237/QĐ-UBND ngày 06/3/2017 của UBND huyện P về việc bổ sung bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dự án Khu phức hợp du lịch Bãi Khem, tại thị trấn A, huyện P, tỉnh Kiên Giang là quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang theo quy định tại Điều 30, 32 của Luật Tố tụng hành chính.

Đại diện người khởi kiện ông Nguyễn Văn H, đại diện người bị kiện Chủ tịch UBND huyện P có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 158, Điều 168 của Luật Tố tụng hành chính xét xử vắng mặt người khởi kiện, người bị kiện.

 [2] Về nội dung:

Ngày 27/6/2014 UBND huyện P ban hành Quyết định 3304/QĐ-UBND thu hồi của bà Nguyễn Thị T diện tích 343,30m2 đất trồng cây lâu năm tại thị trấn A, huyện P, tỉnh Kiên Giang để thực hiện dự án Khu phức hợp du lịch sinh thái Bãi Khem.

Ngày 06/3/2017 UBND huyện P ban hành Quyết định 2237/QĐ-UBND bồi thường, hỗ trợ cho bà T diện tích đất 434,30m2.

Quyết định 2237/QĐ-UBND ngày 06/3/2017 của UBND huyên P ban hành căn cứ vào Quyết định 1950/QĐ-UBND ngày 20/02/2017 của UBND huyện P về việc phê duyệt phương án bổ sung và thu hồi kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dự án Khu phức hợp du lịch sinh thái Bãi Khem tại thị trấn A, huyện P, tỉnh Kiên Giang.

 [3] Quyết định 1950/QĐ-UBND ngày 20/02/2017 do UBND huyện P ban hành đúng thẩm quyền được quy định tại điểm a khoản 3 Điều 69 của Luật Đất đai năm 2013.

Về nội dung của Quyết định 1950/QĐ-UBND: UBND huyện P áp dụng Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành là Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai; Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Thông tư 37/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Quyết định 31/2008/QĐ-UBND ngày 20/10/2008 của UBND Kiên Giang về việc ban hành ban hành Bảng quy định đơn giá bồi thường cây trồng, hoa màu trên địa bàn tỉnh Kiên Giang; Quyết định 22/2015/QĐ-UBND ngày 17/6/2015 của UBND tỉnh Kiên Giang về việc ban hành quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên UBND tỉnh Kiên Giang về việc ban hành Bảng quy định đơn giá xây dựng mới nhà ở, công trình xây dựng và vật kiến trúc; Quyết định 35/2012/QĐ-UBND ngày 30/11/2012 của UBND tỉnh Kiên Giang về việc ban hành Bảng quy định đơn giá xây dựng mới nhà ở, công trình xây dựng và vật kiến trúc; Quyết định 31/2013/QĐ-UBND ngày 20/12/2013 của UBND tỉnh Kiên Giang về việc ban hành Bảng quy định giá các loại đất năm 2014 trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

Trong các văn bản nêu trên, tại thời điểm tháng 02 năm 2017 Quyết định 31/2013/QĐ-UBND ngày 20/12/2013 của UBND tỉnh Kiên Giang đã hết hiệu lực và được thay thế bằng Quyết định 35/2014/QĐ-UBND ngày 22/12/2014 của UBND tỉnh Kiên Giang về việc quy định Bảng giá đất đối với các loại đất trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

UBND huyện P không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà T nên Tòa án không xác định được giá đất UBND huyện P bồi thường cho bà T có được áp dụng theo quy định tại khoản 2 Điều 74 và khoản 3, khoản 4 Điều 114 của Luật Đất đai năm 2013 hay không.

Tuy nhiên, trong Quyết định 1950/QĐ-UBND không nêu căn cứ vào Quyết định của UBND tỉnh Kiên Giang về việc quyết định giá đất cụ T để bồi thường cho bà T như quy định tại khoản 3 Điều 114 của Luật Đất đai năm 2013, nên có căn cứ để khẳng định UBND huyện P chỉ sử dụng bảng giá đất theo Quyết định 31/2013/QĐ-UBND ngày 20/12/2013 của UBND tỉnh Kiên Giang để phê duyệt phương án đền bù, hỗ trợ khi thu hồi đất đối với bà T.

Tại điểm a khoản 3 Điều 69 của Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền quy định tại Điều 66 của Luật này quyết định thu hồi đất, quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong cùng một ngày”. UBND huyện P thu hồi đất của bà T từ tháng 6 năm 2014, đến tháng 02 năm 2017 mới phê duyệt phương án đền bù, nhưng lại không áp dụng hướng dẫn tại điểm a khoản 4 Điều 34 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP của Chính phủ về xử lý một số vấn đề phát sinh khi ban hành Nghị định, làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của bà T.

Trong trường hợp này UBND huyện P phải xây dựng phương án đền bù khi thu hồi đất dựa trên cơ sở pháp luật được quy định tại khoản 2 Điều 74, khoản 3, khoản 4 Điều 114 của Luật Đất đai năm 2013; khoản 1 Điều 14 của Quyết định 22/2015/QĐ-UBND ngày 17/6/2015 của UBND tỉnh Kiên Giang quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Kiên Giang: “Bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ T của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm thu hồi đất”, “Hỗ trợ bằng tiền bằng 03 lần giá đất nông nghiệp cùng loại theo bảng giá đất do Ủy ban nhân dân tỉnh quy định nhân với hệ số điều chỉnh (nếu có) đối với toàn bộ diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi” và áp dụng các chính sách hỗ trợ khác khi thu hồi đất cho bà T (nếu có) theo Quyết định 22/2015/QĐ-UBND ngày 17/6/2015 của UBND tỉnh Kiên Giang.

Với những sai sót này cần thiết phải hủy Quyết định 2237/QĐ-UBND ngày 06/3/2017 của UBND P và kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện P phải lập phương án bồi thường, hỗ trợ và ra quyết định bồi thường, hỗ trợ cho bà T theo đúng quy định của Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn. Trường hợp chậm bồi thường còn phải thanh toán thêm cho bà T một khoản tiền bằng mức tiền chậm nộp theo quy định của Luật Quản lý thuế tính trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 93 của Luật Đất đai năm 2013.

 [5] Từ những nhận định trên, sau khi thảo luận, Hội đồng xét xử nghị nên chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, hủy Quyết định 2237/QĐ-UBND ngày 06/3/2017 của Ủy ban nhân dân huyện P, kiến nghị UBND huyện P ban hành quyết định bồi thường, hỗ trợ cho bà T theo đúng quy định của pháp luật.

 [6] Án phí hành chính sơ thẩm:

Bà T không phải chịu án phí. Hoàn trả cho bà T số tiền tạm ứng án phí đã nộp. UBND P phải chịu án phí 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các Điều 30, 32, 158, 164, 168, 193, 194 của Luật Tố tụng hành chính;

- Căn cứ Điều 69, 74, 93, 114 của Luật Đất đai năm 2013;

- Căn cứ Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ; Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ; Quyết định 22/2015/QĐ-UBND ngày 17 tháng 6 năm 2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang;

- Căn cứ Điều 32 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T.

- Hủy Quyết định 2237/QĐ-UBND ngày 06/3/2017 của Ủy ban nhân dân huyện P, tỉnh Kiên Giang về việc bổ sung bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dự án Khu phức hợp du lịch sinh thái Bãi Khem, tại thị trấn A, huyện P, tỉnh Kiên Giang.

- Kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện P ban hành quyết định bồi thường, hỗ trợ cho bà Nguyễn Thị T theo quy định của pháp luật.

2. Về án phí:

- Ủy ban nhân dân huyện P phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

- Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị T tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu tiền số 0005920 ngày 10 tháng 5 năm 2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kiên Giang.

3. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

725
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 41/2017/HC-ST ngày 28/07/2017 về khiếu kiện quyết định bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất

Số hiệu:41/2017/HC-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Kiên Giang
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 28/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về