Bản án 404/2018/HNGĐ-ST ngày 08/05/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 404/2018/HNGĐ-ST NGÀY 08/05/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 08 tháng 5 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ ChíMinh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 1171/2017/TLST- HNGĐ ngày 27 tháng 11 năm 2017, về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 04/4/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 22/2018/QĐST- HNGĐ ngày 20/4/2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà T, sinh năm T

Địa chỉ: Số B đường H, Phường N, Quận T, Thành phố M.

Địa chỉ liên lạc: Số E Ấp M xã P, huyện C, Thành phố M. ( Có mặt)

Bị đơn: Ông K, sinh năm B

Địa chỉ: Số B đường H, Phường N, Quận T, Thành phố M. ( Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện cùng các tài liệu trong hồ sơ và tại phiên toà nguyên đơn bà T trình bày: bà T và ông K sống chung từ năm 1999 sau đó có đăng ký kết hôn số 98 quyển số 01/2002 ngày 31/12/2002 tại Uỷ ban nhân dân xã T, huyện N, tỉnh N. Vợ chồng sống không hạnh phúc do không hợp tính tình và cách sống, vợ chồng không có sự quan tâm chia sẻ lẫn nhau. Ông K không có trách nhiệm, không quan tâm chăm sóc vợ con mà còn ghen tuông, đánh đập bà T gây thương tích. Nhận thấy tình cảm không còn nên bà T yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn ông K. Quá trình chung sống vợ chồng ông K và bà T có ba con chung tên P, sinh ngày MMK; V, sinh ngày MNK và Q, sinh ngày HSM. Hiện nay hai con chung P và V đang sống với bà T, bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên P và V. Đối với con chung tên Q, sinh ngày HSM hiện ông Kháng đang nuôi dưỡng thì bà T yêu cầu tiếp tục giao cho ông K nuôi dưỡng trẻ Q. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.Vợ chồng ông K và bà T không có tài sản chung và không có nợ chung. Về án phí dân sự sơ thẩm bà T xin chịu toàn bộ.

Bị đơn ông K vắng mặt nhưng tại bản tự khai ngày 18/12/2017 trình bày: Ông K và bà T sống chung có đăng ký kết hôn tại huyện N, tỉnh N; có ba con chung P, sinh ngày MMK; V, sinh ngày MNK và Q, sinh ngày HSM. Mâu thuẫn xảy ra do ông K phát hiện bà T quan hệ với người khác, bà T bỏ gia đình, ông K yêu cầu Tòa hòa giải và cho ông thời gian suy nghĩ.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên Tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và nguyên đơn tuân thủ pháp luật, không có vi phạm tố tụng; Về nội dung đề nghị chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào lời phát biểu của đại diện Viện Kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1].Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Xét đơn của bà T thì đây là vụ án dân sự tranh chấp về ly hôn, trong đó bị đơn cư trú tại Quận 8. Vì vậy, vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân Quận 8 theo Điều 28, 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2]. Về tố tụng:

Bị đơn ông K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ khoản 2 điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử quyết định xử vắng mặt ông K.

[3]. Về các yêu cầu và trách nhiệm của các đương sự :

Về quan hệ hôn nhân: Bà T và ông K sống chung từ năm 1999 sau đó có đăng ký kết hôn số 98 quyển số 01/2002 ngày 31/12/2002 tại Uỷ ban nhân dân xã T, huyện N, tỉnh N nên đây là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã triệu tập bà T và ông K tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông Kháng vắng mặt. Vụ án này thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được. Bà T xác định vợ chồng phát sinh mâu thuẫn ngày càng gay gắt, bà T không còn tình cảm với ông K, không thể kéo dài đời sống chung nên cương quyết xin ly hôn. Bản thân ông K thừa nhận có mâu thuẩn và có yêu cầu hòa giải nhưng không có mặt tại phiên hòa giải do Tòa án triệu tập, cũng không có mặt tại phiên tòa giải quyết quan hệ hôn nhân của ông và bà T chứng tỏ ông K không còn tha thiết duy trì quan hệ hôn nhân với bà T. Có cơ sở xác định cuộc sống gia đình của ông K và bà T không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Như vậy, yêu cầu ly hôn ông K của bà T là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về con chung: Hội đồng xét xử nhận thấy ông K và bà T có có ba con chung P, sinh ngày MMK; V, sinh ngày MNK và Q, sinh ngày HSM. Việc nuôi dưỡng con chung chưa thành niên là nghĩa vụ và quyền lợi của cha mẹ. Xét tình trạng thực tế hiện nay hai con đang sống chung với bà T. Bà T có yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung và con chung cũng có nguyện vọng được sống chung với mẹ, vì vậy tiếp tục giao hai con chung P, sinh ngày MMK; V, sinh ngày MNK cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Đối với con chung tên Q, sinh ngày HSM hiện đang sống chung với ông K nên tiếp tục giao trẻ V cho ông K trực tiếp nuôi dưỡng. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung bà T tự khai không có nên không đặt vấn đề giải quyết.

[4]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 bà Thảo phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4Điều 147; Điều 227; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Các Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử vắng mặt đối với ông K:

1/ Chấp nhận yêu cầu của bà T:

-Về hôn nhân: Bà T được ly hôn với ông K.

-Về con chung: Có ba con chung P, sinh ngày MMK; V, sinh ngày MNK và Q, sinh ngày HSM.

Giao cho bà T trực tiếp nuôi hai con chung tên P, sinh ngày MMN; V, sinh ngàyNMK.

Giao cho ông K trực tiếp nuôi một con chung tên Q, sinh ngày HSM.Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

Bên không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Vì quyền lợi của trẻ, khi cần thiết cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được qui định tại khoản 5, Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có thể xin thay đổi việc nuôi con hoặc đóng góp phí tổn nuôi con.

-Về tài sản chung và nợ chung : Bà T khai không có nên Tòa không đặt vấn đề giải quyết.

2/ Án phí dân sự sơ thẩm: 300.000 đồng bà T phải chịu, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số AA/2017/0013750 ngày23/11/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 8. Bà T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

3/ Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4/ Bà T có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với ông K vắng mặt thì thời hạn kháng cáo tính kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 404/2018/HNGĐ-ST ngày 08/05/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:404/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 8 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về