Bản án 39/2017/HC-ST ngày 28/07/2017 về khiếu kiện quyết định bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 39/2017/HC-ST NGÀY 28/07/2017 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT

Ngày 28 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số: 57/2017/TLST-HC ngày 11 tháng 5 năm 2017 về việc: “Khiếu kiện quyết định về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2017/QĐXXST-HC ngày 13 tháng 7 năm 2017 giữa các đương sự:

1. Người khởi kiện: Ông Trần Văn H, sinh năm 1964 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Khu phố 8, thị trấn A, huyện P, tỉnh Kiên Giang.

- Người đại diện hợp pháp của người khởi kiện: Ông Trần Văn A, sinh năm 1982 - Theo văn bản ủy quyền ngày 13/5/2017 (Có mặt).

Địa chỉ: Số 124C đường 2/9, phường 11, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

2. Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện P, tỉnh Kiên Giang.

- Người đại diện hợp pháp của người bị kiện: Ông Đinh Khoa T – Chức vụ: Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện P (Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt).

Địa chỉ: Số 04 đường 30/4, khu phố 02, thị trấn D, huyện P, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ kiện, người khởi kiện ông Trần Văn H và người đại diện hợp pháp Trần Văn A trình bày:

Ngày 20/02/2017 UBND huyện P ban hành Quyết định 1953/QĐ-UBND thu hồi của ông Trần Văn H diện tích 7.532,2m2 tại khu phố 6, thị trấn A, huyện P, tỉnh Kiên Giang để xây dựng dự án Khu phức hợp du lịch sinh thái Bãi Khem.

Trong diện tích đất 7.532,2m2 bị thu hồi, ông H đang tranh chấp với ông Trần Văn T 2.760m2 nên UBND thị trấn A đề nghị bồi thường, hỗ trợ trước cho gia đình ông H diện tích 4.772,2m2 không có tranh chấp. Phần còn lại sẽ được bồi thường, hỗ trợ khi giải quyết tranh chấp xong.

Ngày 06/3/2017 UBND huyện P ban hành Quyết định 2233/QĐ-UBND bồi thường, cho ông Trần Văn H số tiền 2.481.544.000 đồng (Hai tỷ, bốn trăm tám mươi mốt triệu, năm trăm bốn mươi bốn nghìn đồng). Trong đó: Bồi thường về đất đai 620.386.000 đồng (Sáu trăm hai mươi triệu, ba trăm tám mươi sáu nghìn đồng); Hỗ trợ đất đai 1.861.158.000 đồng (Một tỷ, tám trăm sáu mươi mốt triệu, một trăm năm mươi tám nghìn đồng). Ông H đã nhận tiền bồi thường, hỗ trợ.

Ông H cho rằng Quyết định 2233/QĐ-UBND ngày 06/3/2017 của UBND huyện P bồi thường, hỗ trợ cho ông H chưa đúng quy định của pháp luật khi Nhà nước thu hồi đất. Cụ thể:

Căn cứ vào số tiền bồi thường, hỗ trợ cho ông H theo Quyết định 2233/QĐ-UBND ngày 06/3/2017 của UBND huyện P thì đất của ông H được bồi thường với giá đất theo Quyết định 31/2013/QĐ-UBND ngày 20/12/2013 của UBND tỉnh Kiên Giang bằng 130.000 đồng/m2, giá đất nông nghiệp trồng cây lâu năm tại vị trí 2. Nhưng tại thời điểm năm 2017, quyết định này đã hết hiệu lực và được thay thế bởi Quyết định 35/2014/QĐ-UBND ngày 22/12/2014 của UBND tỉnh Kiên Giang về việc ban hành quy định Bảng giá đất đối với các loại đất trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, Quyết định 04/2016/QĐ-UBND ngày 15/01/2016 của UBND tỉnh Kiên Giang về việc quy định hệ số điều chỉnh giá đất trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

Căn cứ Luật Đất đai năm 2013 thì UBND huyện P phải khảo sát giá đất theo thị trường cho từng dự án để bồi thường, hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi.

Quyết định 2233/QĐ-UBND ngày 06/3/2017 của UBND huyện P không hỗ trợ ổn định đời sống cho gia đình ông H theo quy định tại Quyết định 22/2015/QĐ-UBND ngày 17/6/2015 của UBND tỉnh Kiên Giang quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

Ông H khởi kiện yêu cầu TAND tỉnh Kiên Giang giải quyết:

- Hủy Quyết định 2233/QĐ-UBND ngày 06/3/2017 của UBND huyện P về việc bổ sung bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dự án Khu phức hợp du lịch sinh thái Bãi Khem, tại thị trấn A, huyện P, tỉnh Kiên Giang;

- Buộc UBND huyện P ban hành quyết định bồi thường, hỗ trợ cho ông Trần Văn H theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình giải quyết vụ kiện, người bị kiện UBND huyện P đã được tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về việc mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại, Quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án, nhưng không có văn bản nêu ý kiến về yêu cầu khởi kiện của ông H, không cung cấp tài liệu, chứng cứ liên quan đến việc ban hành quyết định bị kiện. Đồng thời có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng nên không ghi nhận được ý kiến của người bị kiện.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Ông Trần Văn A đại diện cho ông Trần Văn H yêu cầu Tòa án hủy Quyết định 2233/QĐ-UBND ngày 06/3/2017 của UBND huyện P về việc bổ sung bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dự án Khu phức hợp sinh thái Bãi Khem tại thị trấn A, huyện P, tỉnh Kiên Giang đối với ông Trần Văn H.

Vì quyết định này ban hành căn cứ theo Quyết định 1950/QĐ-UBND ngày 20/02/2017 của UBND huyện P về việc phê duyệt phương án bổ sung và thu hồi kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dự án Khu phức hợp sinh thái Bãi Khem tại thị trấn A, huyện P, tỉnh Kiên Giang là một quyết định được ban hành không đúng quy định của pháp luật. Cụ thể:

Tại thời điểm ban hành Quyết định 1950/QĐ-UBND thì Quyết định 31/2013/QĐ-UBND ngày 20/12/2013 của UBND tỉnh Kiên Giang về việc ban hành bảng quy định giá các loại đất năm 2014 trên địa bàn tỉnh Kiên Giang đã không còn hiệu lực. UBND huyện P phải áp dụng Quyết định 35/2014/QĐ- UBND ngày 22/12/2014 của UBND tỉnh Kiên Giang về việc quy định Bảng giá đất đối với các loại đất trên địa bàn tỉnh Kiên Giang (thay thế Quyết định 31/2013/QĐ-UBND) để làm căn cứ hỗ trợ mới phù hợp.

Ông A yêu cầu Tòa án áp dụng điểm a khoản 4 Điều 34 của Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để buộc UBND huyện P ban hành quyết định bồi thường mới đối với ông H.

Phương án bồi thường cho ông H được phê duyệt năm 2017 thì phải áp dụng các quy định của Luật Đất đai năm 2013 để lập phương án.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 74 Luật Đất đai 2013: “Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất”.

Đối với số tiền bồi thường, hỗ trợ theo Quyết định 2233/QĐ-UBND ông H đã nhận nên ông sẽ tự nguyện khấu trừ khi có quyết định bồi thường mới.

Kiểm sát viên phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội thẩm nhân nhân, Thư ký Tòa án và việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng:

Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân thủ đúng quy định của Luật Tố tụng hành chính tại phiên tòa sơ thẩm.

Thẩm phán thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, thu thập chứng cứ đủ điều kiện để giải quyết vụ kiện.

Người khởi kiện, người đại diện hợp pháp của người khởi kiện: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa đã chấp hành đúng các quy định Luật Tố tụng hành chính.

Đối với người bị kiện: Trong quá trình giải quyết vụ án, Chủ tịch UBND huyện P có đơn xin xét xử vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt là đúng quy định tại khoản 1 Điều 158 Luật Tố tụng hành chính. Tuy nhiên, Người bị kiện chưa chấp hành nghĩa vụ về cung cấp tài liệu, chứng cứ quy định tại Điều 78 Luật Tố tụng hành chính mặc dù đã nhận được Thông báo thụ lý của Tòa án. Việc vắng mặt của người bị kiện gây khó khăn trong quá trình giải quyết vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện ông Trần Văn H, hủy Quyết định 2233/QĐ-UBND ngày 06/3/2017 của UBND huyện P và buộc UBND huyện P ban hành quyết định bồi thường, hỗ trợ cho ông Trần Văn H theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ kiện được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Quyết định 2233/QĐ-UBND ngày 06/3/2017 của UBND huyện P về việc bổ sung bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dự án Khu phức hợp du lịch Bãi Khem, tại thị trấn A, huyện P, tỉnh Kiên Giang là quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang theo quy định tại Điều 30, 32 của Luật Tố tụng hành chính.

Đại diện người bị kiện Chủ tịch UBND huyện P có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 158 của Luật Tố tụng hành chính xét xử vắng mặt người bị kiện.

 [2] Về nội dung:

Ngày 20/02/2017 UBND huyện P ban hành Quyết định 1953/QĐ-UBND thu hồi của ông Trần Văn H diện tích 7.532,2 m2 đất trồng cây lâu năm tại thị trấn A, huyện P, tỉnh Kiên Giang để thực hiện dự án Khu phức hợp du lịch sinh thái Bãi Khem.

Ngày 06/3/2017 UBND huyện P ban hành Quyết định 2233/QĐ-UBND bồi thường, hỗ trợ cho ông H diện tích đất 4.772,2m2, diện tích còn lại có tranh chấp nên chưa thực hiện việc bồi thường.

Quyết định 2233/QĐ-UBND ngày 06/3/2017 của UBND huyên P ban hành căn cứ vào Quyết định 1950/QĐ-UBND ngày 20/02/2017 của UBND huyện P về việc phê duyệt phương án bổ sung và thu hồi kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dự án Khu phức hợp du lịch sinh thái Bãi Khem tại thị trấn A, huyện P, tỉnh Kiên Giang.

 [3] Quyết định 1950/QĐ-UBND ngày 20/02/2017 do UBND huyện P ban hành đúng thẩm quyền được quy định tại điểm a khoản 3 Điều 69 của Luật Đất đai 2013.

Về nội dung của Quyết định 1950/QĐ-UBND: UBND huyện P áp dụng Luật Đất đai 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành là Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai; Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Thông tư 37/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Quyết định 31/2008/QĐ-UBND ngày 20/10/2008 của UBND Kiên Giang về việc ban hành ban hành Bảng quy định đơn giá bồi thường cây trồng, hoa màu trên địa bàn tỉnh Kiên Giang; Quyết định 22/2015/QĐ-UBND ngày 17/6/2015 của UBND tỉnh Kiên Giang về việc ban hành quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên UBND tỉnh Kiên Giang về việc ban hành Bảng quy định đơn giá xây dựng mới nhà ở, công trình xây dựng và vật kiến trúc; Quyết định 35/2012/QĐ-UBND ngày 30/11/2012 của UBND tỉnh Kiên Giang về việc ban hành Bảng quy định đơn giá xây dựng mới nhà ở, công trình xây dựng và vật kiến trúc; Quyết định 31/2013/QĐ-UBND ngày 20/12/2013 của UBND tỉnh Kiên Giang về việc ban hành Bảng quy định giá các loại đất năm 2014 trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

Trong các văn bản nêu trên, tại thời điểm tháng 02 năm 2017 Quyết định 31/2013/QĐ-UBND ngày 20/12/2013 của UBND tỉnh Kiên Giang đã hết hiệu lực và được thay thế bằng Quyết định 35/2014/QĐ-UBND ngày 22/12/2014 của UBND tỉnh Kiên Giang về việc quy định Bảng giá đất đối với các loại đất trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

UBND huyện P không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của ông H nên Tòa án không xác định được giá đất UBND huyện P bồi thường cho ông H có được áp dụng theo quy định tại khoản 2 Điều 74 và khoản 3, khoản 4 Điều 114 Luật Đất đai 2013 hay không.

Tuy nhiên, trong Quyết định 1950/QĐ-UBND không nêu căn cứ vào Quyết định của UBND tỉnh Kiên Giang về việc quyết định giá đất cụ thể để bồi thường cho ông H như quy định tại khoản 3 Điều 114 của Luật Đất đai năm 2013, nên có căn cứ để khẳng định UBND huyện P chỉ sử dụng bảng giá đất theo Quyết định 31/2013/QĐ-UBND ngày 20/12/2013 của UBND tỉnh Kiên Giang để phê duyệt phương án đền bù, hỗ trợ khi thu hồi đất đối với ông H.

Trong trường hợp này UBND huyện P phải xây dựng phương án đền bù khi thu hồi đất dựa trên cơ sở pháp luật được quy định tại khoản 2 Điều 74, khoản 3, khoản 4 Điều 114 của Luật Đất đai năm 2013; khoản 1 Điều 14 của Quyết định 22/2015/QĐ-UBND ngày 17/6/2015 của UBND tỉnh Kiên Giang quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Kiên Giang: “Bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm thu hồi đất”, “Hỗ trợ bằng tiền bằng 03 lần giá đất nông nghiệp cùng loại theo bảng giá đất do Ủy ban nhân dân tỉnh quy định nhân với hệ số điều chỉnh (nếu có) đối với toàn bộ diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi” và áp dụng các chính sách hỗ trợ khác khi thu hồi đất cho ông H (nếu có) theo Quyết định 22/2015/QĐ-UBND ngày 17/6/2015 của UBND tỉnh Kiên Giang.

Với những sai sót này cần thiết phải hủy Quyết định 2233/QĐ-UBND ngày 06/3/2017 của UBND P và kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện P phải lập phương án bồi thường, hỗ trợ và ra quyết định bồi thường, hỗ trợ cho ông H theo đúng quy định của Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn. Trường hợp chậm bồi thường còn phải thanh toán thêm cho ông H một khoản tiền bằng mức tiền chậm nộp theo quy định của Luật Quản lý thuế tính trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 93 Luật Đất đai 2013.

 [5] Từ những nhận định trên, sau khi thảo luận, Hội đồng xét xử nghị nên chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn H và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, hủy Quyết định 2233/QĐ-UBND ngày 06/3/2017 của Ủy ban nhân dân huyện P, kiến nghị UBND huyện P ban hành quyết định bồi thường, hỗ trợ cho ông H theo đúng quy định của pháp luật.

 [6] Án phí hành chính sơ thẩm:

Ông H không phải chịu án phí. Hoàn trả cho ông H số tiền tạm ứng án phí đã nộp. UBND P phải chịu án phí 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các Điều 30, 32, 158, 164, 193, 194 Luật Tố tụng hành chính;

- Căn cứ Điều 74, 93, 114 của Luật Đất đai năm 2013;

- Căn cứ Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ; Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ; Quyết định 22/2015/QĐ-UBND ngày 17 tháng 6 năm 2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang;

- Căn cứ Điều 32 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn H.

- Hủy Quyết định 2233/QĐ-UBND ngày 06/3/2017 của Ủy ban nhân dân huyện P, tỉnh Kiên Giang về việc bổ sung bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dự án Khu phức hợp du lịch sinh thái Bãi Khem, tại thị trấn A, huyện P, tỉnh Kiên Giang.

- Kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện P ban hành quyết định bồi thường, hỗ trợ cho ông Trần Văn H theo quy định của pháp luật.

2. Về án phí:

- Ủy ban nhân dân huyện P phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

- Hoàn trả cho ông Trần Văn H tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu tiền số 0005918 ngày 10 tháng 5 năm 2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kiên Giang.

3. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với các đương sự vắng mặt tại phiên tòa thời hạn kháng cáo được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

495
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2017/HC-ST ngày 28/07/2017 về khiếu kiện quyết định bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất

Số hiệu:39/2017/HC-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Kiên Giang
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 28/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về