Bản án 38/2020/HNGĐ-ST ngày 21/07/2020 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH – TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 38/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/07/2020 VỀ LY HÔN

Vào ngày 21 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 208/2020/TLST- HNGĐ ngày 18 tháng 5 năm 2020 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2020/QĐST-DS ngày 26 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Ngô Thị Ngọc P, sinh năm 1976, (có mặt) Địa chỉ: D, ấp C, xã N, thành phố B, tỉnh Bến Tre.

2. Bị đơn: Anh Trương Hồ V, sinh năm 1976; Địa chỉ: A, ấp B, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre. (Anh V có yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 06/5/2020, bản tự khai và tại phiên tòa hôm nay chị P trình bày:

Chị và anh Trương Hồ V tự nguyện kết hôn vào năm 2000, có đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã N, thành phố B, tỉnh Bến Tre. Sau khi kết hôn, cuộc sống của vợ chồng chị hạnh phúc được khoảng 10 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, không hợp nhau về tính cách, thường xuyên cãi nhau. Anh V còn thường xuyên nhậu, hút thuốc lá nhiều, chị đã khuyên ngăn nhiều lần nhưng anh V vẫn không sửa đổi. Anh V đã về nhà cha mẹ ruột sinh sống từ tháng 7/2010 đến nay. Trong thời gian đó, chị và anh V mạnh ai người đó sống, không ai quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Nay chị P xác định tình cảm vợ chồng giữa chị với anh V không còn, chị P yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh V.

Về con chung: có 03 con chung tên Trương Ngô A P1, sinh ngày 31/12/2000;

Trương Ngô Y P2, sinh ngày 31/12/2000 và Trương Ngô Ân P3, sinh ngày 09/02/2004; Hiện cháu Ân P3 đang sống cùng chị P. Sau khi ly hôn, chị P yêu cầu được nuôi con tên Ân P3; không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con. Hai con Y P2 và A P1 đã trưởng thành, chị P không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: không có Theo biên bản làm việc ngày 03/6/2020 bị đơn anh Trương Hồ V trình bày:

Anh V thống nhất với phần trình bày của chị Phương về thời gian kết hôn. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc được nhiều năm. Trong cuộc sống hàng ngày, thỉnh thoảng vợ chồng anh có cự cãi nhưng không có mâu thuẫn gì lớn. Anh có ham nhậu, hút thuốc lá nhiều nhưng không có đánh đập vợ con. Hai năm nay anh về nhà cha mẹ ruột ở bên xã Phước Thạnh sinh sống, thỉnh thoảng có về thăm con, nhưng anh và chị P không gặp nhau, không ai quan tâm đến ai, mạnh ai người đó sống. Anh không đồng ý ly hôn vì vẫn còn thương vợ con.

Về con chung: Có 03 con chung như chị P trình bày. Cháu Trương Ngô A P1, sinh ngày 31/12/2000; Trương Ngô Y P2, sinh ngày 31/12/2000 đã trưởng thành, anh V không có yêu cầu Tòa án giải quyết. Còn cháu Trương Ngô Ân P3, sinh ngày 09/02/2004, hiện đang học bên trường Bến Tre, tên trường cụ thể là gì thì anh không biết. Nếu Tòa án giải quyết cho anh chị ly hôn thì anh yêu cầu được nuôi cháu Ân P3, không yêu cầu chị P cấp dưỡng cho con; nhưng nếu cháu Ân P3 có nguyện vọng ở với mẹ thì anh cũng đồng ý để cho chị P nuôi con, anh không cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng và quan điểm giải quyết vụ án: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Ngô Thị Ngọc P đối với anh Trương Hồ V. Giao con chung là Trương Ngô Ân P3, sinh ngày 09/02/2004 cho chị P tiếp tục nuôi giữ, chăm sóc. Anh V không phải cấp dưỡng nuôi con. Đối với cháu Trương Ngô A P1, sinh ngày 31/12/2000; Trương Ngô Y P2, sinh ngày 31/12/2000 hiện đã trưởng thành nên không xét đến. Tài sản chung: không có. Nợ chung: không có. Về án phí giải quyết theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Trương Hồ V là bị đơn trong vụ án, anh V có yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt anh. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh V là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và nội dung vụ án, Tòa án xác định quan hệ tranh chấp là “Ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Qua xác minh bị đơn anh V có đăng ký hộ khẩu thường trú và đang sinh sống tại địa chỉ số A, ấp B, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre nên căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Bến Tre.

Chị Ngô Thị Ngọc P và anh Trương Hồ V tự nguyện kết hôn vào năm 2000, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã N, thành phố B, tỉnh Bến Tre và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 02/3/2001 nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống P và anh V phát sinh mâu thuẫn, chị P khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Trương Hồ V, yêu cầu của chị P được Tòa án xem xét giải quyết theo quy định tại khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về nội dung: Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay chị P xác định đã không còn tình cảm với anh V nên vẫn giữ nguyên yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh Trương Hồ V.

Hội đồng xét xử nhận thấy, trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án nhân dân huyện Châu Thành đã tiến hành tổ chức phiên hòa giải để vợ chồng chị P, anh V hàn gắn tình cảm nhưng anh V đã vắng mặt không có lý do. Điều đó thể hiện anh V đã không có thiện chí muốn vợ chồng đoàn tụ. Mặt khác, theo xác minh của Tòa án với người thân của chị P, anh V thể hiện giữa chị P với anh V đã có những mâu thuẫn phát sinh từ lâu. Chị P với anh V đã không sống chung với nhau khoảng 2 năm nay. Bản thân anh V cũng thừa nhận mặc dù còn tình cảm với chị P nhưng trong 2 năm qua anh ở nhà mẹ ruột (ở xã P) còn chị P thì ở xã N, anh và chị mạnh ai người đó sống, không ai quan tâm đến ai. Qua đó cho thấy, tình trạng mâu thuẫn vợ chồng giữa chị P, anh V đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, việc yêu cầu ly hôn của chị Ngô Thị Ngọc P đối với anh Trương Hồ V là có căn cứ và phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về con chung: có 03 con chung tên Trương Ngô A P1, sinh ngày 31/12/2000; Trương Ngô Y P2, sinh ngày 31/12/2000; và Trương Ngô Ân P3, sinh ngày 09/02/2004. Hiện hai cháu A P1, Y P2 đã trưởng thành nên chị P, anh V không yêu cầu Tòa án giải quyết. Cháu Ân P 3 hiện đang sống với chị P. Sau khi ly hôn chị P và anh V đều có nguyện vọng nuôi con Ân P3 nhưng tùy thuộc vào nguyện vọng của con muốn ở với ai thì người đó nuôi, người còn lại không phải cấp dưỡng cho con.

Qua các biên bản làm việc của Tòa án và anh V cũng thừa nhận rằng từ khi anh về nhà mẹ ruột sống cho đến nay cháu Ân P3 sống với chị P và gia đình chị P, có cuộc sống học tập và sinh hoạt ổn định. Đồng thời, phía chị P cũng có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Ân P3 và không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con. Hơn nữa tại biên bản hỏi ý kiến ngày 21/5/2020 thì cháu Ân P có nguyện vọng được tiếp tục sống với mẹ là chị Ngô Thị Ngọc P. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định giao cho chị P được trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung là Trương Ngô Ân P sẽ đảm bảo quyền và lợi ích mọi mặt cho con chung là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình. Sau khi ly hôn, anh Trương Hồ V có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Anh V không phải cấp dưỡng cho con do chị P tự nguyện không yêu cầu.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: chị P, anh V khai không có nên Tòa án không xét đến [6] Về án phí: Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng chị P phải nộp.

[7] Từ những nhận định nêu trên, xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành là có căn cứ nên được chấp nhận toàn bộ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147 và Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: chị Ngô Thị Ngọc P được ly hôn với anh Trương Hồ V.

Quan hệ hôn nhân của chị P, anh V chấm dứt kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung: chị P, anh V có 03 con chung tên Trương Ngô A P1, sinh ngày 31/12/2000; Trương Ngô Y P2, sinh ngày 31/12/2000 và Trương Ngô Ân P3, sinh ngày 09/02/2004.

Hiện hai cháu A P1, Y P2 đã trưởng thành nên Tòa án không xét đến.

Sau khi ly hôn chị Ngô Thị Ngọc P được quyền tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là Trương Ngô Ân P3. Anh V không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh V có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con chung sau này, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: chị P, anh V khai không có nên Tòa án không xét đến.

4. Về án phí: Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm chị Ngô Thị Ngọc P phải nộp là 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0009964 ngày 12 tháng 5 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Chị Ngô Thị Ngọc P đã nộp đủ án phí.

Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Đương sự vắng mặt tại tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

546
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2020/HNGĐ-ST ngày 21/07/2020 về ly hôn

Số hiệu:38/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về