Bản án 372/2017/HNGĐ-ST ngày 12/12/2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 372/2017/HNGĐ-ST NGÀY 12/12/2017 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 12 tháng 12 năm 2017, tại Hội trường Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 281/2017/TLST- HNGĐ ngày 03 tháng 10 năm 2017 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 73/2017/QĐXX-ST ngày 13 tháng 11 năm 2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lương Thị H, sinh năm: 1988; địa chỉ: thôn Q, xã Điện H, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (có mặt)

- Bị đơn: Ông Phan Văn N, sinh năm: 1988; địa chỉ: Thôn Q, xã Điện H, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 14/9/2017 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn, bà Lương Thị H trình bày:

Bà Lương Thị H và ông Phan Văn N kết hôn vào ngày 10/12/2008, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn N, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện.

Trong quá trình chung sống, vợ chồng sống hạnh phúc với nhau một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do ông N là người không có trách nhiệm với gia đình, thường xuyên vắng nhà, không quan tâm đến vợ con. Vì vậy, vợ chồng thường xuyên cãi vã, ông N có đánh đập bà H. Vì vậy, bà H đã bỏ về nhà mẹ đẻ sống khoảng 1 năm nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa, mâu thuẫn không thể khắc phục, thực tế vợ chồng không còn sống chung nên bà yêu cầu Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn giải quyết cho bà được ly hôn với ông Phan Văn N.

Về con chung: có 01 con chung tên Phan Văn Tự N1, sinh ngày: 03/6/2009. Hiện con chung đang sống cùng bà H. Nay ly hôn, bà H có nguyện vọng được nuôi con chung và không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: không có.

Bị đơn, ông Phan Văn N đã được triệu tập hợp lệ nhưng không đến Tòa án làm việc nên không có lời trình bày.

Đại diện VKSND thị xã Điện Bàn phát biểu quan điểm giải quyết vụ án.

Quá trình Toà án cấp sơ thẩm đã thụ lý, giải quyết, xét xử vụ án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân thủ đúng quy định của BLTTDS. Nguyên đơn chấp hành tốt quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án Viện kiểm sát cho rằng: việc mâu thuẫn của các đương sự đã trầm trọng, các bên đương sự đã tự sống ly thân nên đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Về con chung đề nghị giao con chung là Phan Văn Tự Nhẫn, sinh ngày: 03/6/2009 cho bà Lương Thị H trông nom, chăm sóc và giáo dục đến tuổi trưởng thành. Bà Lương Thị H không yêu cầu ông Phan Văn N cấp dưỡng nuôi con chung

Về tài sản chung và nợ chung: không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án Ly hôn, tranh chấp nuôi con giữa nguyên đơn bà Lương Thị H và bị đơn ông Phan Văn N. Bị đơn có HKTT tại địa chỉ: thôn Q, xã Điện H, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn ông Phan Văn N đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 BLTTDS.

[2] Về nội dung vụ án: Bà Lương Thị H và ông Phan Văn N có đăng ký kết hôn đúng theo quy định của pháp luật nên quan hệ hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do ông Nhân không quan tâm đến gia đình, thường xuyên vắng nhà dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi vã, xô xát nhau. Vì vậy, vợ chồng đã sống ly thân khoảng 01 năm nay. Trong thời gian ly thân, vợ chồng vẫn không hàn gắn mâu thuẫn. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể tiếp tục kéo dài nên bà H cương quyết yêu cầu được ly hôn với ông Phan Văn N.

Ông Phan Văn N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không đến Tòa án làm việc, chứng tỏ ông là người coi thường pháp luật, cố tình trốn tránh gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng, không có ý kiến trình bày coi như từ bỏ quyền của mình. Qua xác minh tại gia đình cũng như chính quyền địa phương đã xác nhận: nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng là do vợ chồng cãi vã nên ông N có đánh vợ, vợ chồng đã sống ly thân khoảng 01 năm nay. Điều đó cho thấy rằng tình trạng hôn nhân giữa bà H và ông N đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không còn tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ Điều 51, 56 Luật Hôn nhân gia đình xử cho bà Lương Thị H được ly hôn ông Phan Văn N là phù hợp.

[3] Về nuôi con chung: Bà H và ông N có 01 con chung tên là Phan Văn Tự N1, sinh ngày 03/6/2009. Hiện con chung đang sống cùng bà H. Khi ly hôn bà H có nguyện vọng nuôi con chung và không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con chung. Cháu Phan Văn Tự N1 có nguyện vọng sống cùng cha.

Hội đồng xét xử xét thấy: Bà H và ông N không còn sống chung với nhau khoảng 1năm nay. Hiện tại con chung đang sống cùng bà H. Mặc dù cháu Nhẫn có nguyện vọng sống cùng cha song hiện tại cháu đang sống cùng mẹ. Hơn nữa, ông N đã được triệu tập nhiều lần như không có mặt để trình bày ý kiến nên không thể xem xét nguyện vọng của ông được. Cháu N1 đang ở độ tuổi thiếu niên nên cần sự chăm sóc, giáo dục của cha mẹ. Do đó, để đảm bảo cuộc sống tốt nhất về mọi mặt cho con chung, Hội đồng xét xử căn cứ Khoản 2 Điều 81 Luật HN&GĐ thống nhất giao con chung là Phan Văn Tự N1, sinh ngày: 03/6/2009 cho bà Lương Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đến đủ 18 tuổi và đủ khả năng lao động. Bà Lương Thị H không yêu cầu ông Phan Văn N cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: không có

Về án phí: Bà Lương Thị H là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53, khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật HN&GĐ; Luật phí, lệ phíNghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Lương Thị H được ly hôn ông Phan Văn N.

[2] Về con chung:

Giao con chung là Phan Văn Tự N1, sinh ngày: 03/6/2009 cho bà Lương Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đến đủ 18 tuổi và đủ khả năng lao động. Bà Lương Thị H không yêu cầu ông Phan Văn N cấp dưỡng nuôi con chung.

Ông Phan Văn N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung sau khi ly hôn, không ai được cản trở.

[3] Về tài sản chung và nợ chung: không có

[4] Về án phí: Bà Lương Thị H phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tại biên lai thu số 0008607 ngày 03/10/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Điện Bàn. Bà Lương Thị H đã nộp xong án phí dân sự sơ thẩm.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng người vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

142
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 372/2017/HNGĐ-ST ngày 12/12/2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:372/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Điện Bàn - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về