Bản án 37/2019/HS-ST ngày 14/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN LÃNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 37/2019/HS-ST NGÀY 14/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 32/2019/TLST-HS ngày 16 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2019/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 5 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 15/2019/HSST-QĐ ngày 10/6/2019 đối với bị cáo:

Nông Văn T, tên gọi khác: Không có; sinh ngày 11 tháng 5 năm 1983 tại huyện V, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi sinh sống: Thôn P, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nông Văn B, sinh năm 1962 (đã chết) và bà Hoàng Thị N, sinh năm 1958; có vợ là Nông Thị N, sinh năm 1985, con: có 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị xử lý trách nhiệm hình sự hoặc xử lý vi phạm hành chính; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/3/2019 tại nhà tạm giữ Công an huyện V, tỉnh Lạng Sơn đến nay. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Hoàng Văn L – Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Người chứng kiến: Anh Hoàng Văn M, sinh năm 1988. Địa chỉ: xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nông Văn T sinh ngày 11/5/1983, nghiện ma túy từ tháng 9/2018 đến nay. Sáng ngày 01/3/2019, Nông Văn T từ nhà tại thôn P, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn đến thành phố L để chăm sóc người ốm. Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 01/3/2019, Nông Văn T đem theo 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, đi xe khách từ thành phố L đến cửa khẩu T thuộc xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn mục đích tìm mua ma túy về sử dụng. Đến cửa khẩu T, Nông Văn T đi bộ lên đỉnh đồi K thuộc thôn N, xã T, là địa phận giáp ranh biên giới Việt Nam - Trung Quốc. Tại đây, Nông Văn T gặp và hỏi mua ma túy với một người đàn ông Trung Quốc khoảng 30 tuổi (không biết họ tên, địa chỉ), người này đồng ý, T đưa cho người đàn ông này 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, người này nhận tiền và đưa lại cho T 01 (một) gói giấy bạc bên trong đựng 03 (ba) gói giấy kẻ dòng màu trắng, trong mỗi gói giấy đều chứa chất bột màu trắng là ma túy heroine, Nông Văn T nhận lấy gói giấy bạc chứa 03 (ba) gói ma túy và cất giấu vào trong túi quần đằng trước bên trái đang mặc, sau đó theo đường mòn về cửa khẩu T để về nhà. Khi Nông Văn T đi bộ xuống đến chân đồi K thì bị tổ công tác Công an huyện Văn Lãng kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang.

Tổ công tác đã thu giữ của Nông Văn T gồm: 01 (một) gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa 03 (ba) gói giấy kẻ dòng màu trắng, trong mỗi gói giấy đều chứa chất bột màu trắng nghi là chất ma túy được niêm phong trong một phong bì ký hiệu bằng chữ viết tay “QT Nông Văn T”.

Tại bản Kết luận giám định số 111/KL-PC09 ngày 04/3/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn, kết luận: Chất bột màu trắng có trong 03 (ba) gói giấy gửi giám định đều là chất ma túy Heroine, có tổng khối lượng 0,177 gam (đã trừ bì).

Tại bản Cáo trạng số 34/CT-VKS ngày 15/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Nông Văn T về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nông Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nông Văn T từ 15 tháng đến 18 tháng tù giam. Bị cáo là người nghiện ma túy, không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, không có tài sản có giá trị nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được để trong một phong bì niêm phong và toàn bộ vỏ bao gói.

Người bào chữa cho bị cáo nhất trí với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt bổ sung và xử lý vật chứng. Về mức hình phạt: bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, là người dân tộc thiểu số, là lao động chính trong gia đình, có hai con đều còn nhỏ, con nhỏ mới sinh được ba tháng, vợ hay ốm, mẹ bị cáo bị tai nạn lao động cụt mất một bàn tay, bố bị cáo đã chết, hoàn cảnh gia đình khó khăn, sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù giam.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nông Văn T đều khai nhận hành vi phạm tội, nhất trí với bản cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn. Tại lời nói sau cùng, bị cáo xin được hưởng mức án nhẹ nhất để sớm trở về hòa nhập cộng đồng, cải tạo thành công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Người bào chữa đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi của bị cáo: Hồi 16 giờ 15 phút ngày 01/3/2019, Tổ công tác Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đang làm nhiệm vụ tại khu vực chân đồi K thuộc thôn N, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn đã phát hiện, bắt quả tang Nông Văn T sinh ngày 11/5/1983, đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn P, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy heroine có tổng khối lượng là 0,177 gam (đã trừ bì), với mục đích để sử dụng. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, phù hợp với vật chứng đã thu giữ được và Kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự; nhận thức được hành vi bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Nông Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội thấy rằng: Hành vi mà bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân gián tiếp gây ra tệ nạn xã hội và các tội phạm khác. Bị cáo nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng chỉ vì để phục vụ cho việc sử dụng ma túy của bản thân, bị cáo đã bất chấp pháp luật và dư luận xã hội, để thực hiện hành vi phạm tội.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, hoàn cảnh gia đình khó khăn, vợ mới sinh con, bố chết, mẹ bị tai nạn lao động hay đau ốm, bị cáo là lao động chính trong gia đình, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Không có.

[6] Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; chưa bị xử lý trách nhiệm hình sự hoặc xử lý vi phạm hành chính. Bị cáo nghiện ma túy từ tháng 9/2018 cho đến nay, điều này thể hiện bị cáo thiếu tu dưỡng, rèn luyện bản thân.

[7] Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết xử phạt cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung.

[8] Về hình phạt bổ sung: Theo Biên bản xác minh ngày 28/3/2019 của Cơ quan điều tra và qua xét hỏi công khai bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm thấy rằng: Bị cáo không có thu nhập ổn định, bản thân nghiện ma túy, không sở hữu tài sản có giá trị; vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định (0,124 gam heroine) được để trong một phong bì niêm phong ký hiệu bằng chữ viết tay “QT Nông Văn T”, trên phong bì có chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Mạnh H, trợ lý giám định, đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn tại phần giáp lai mới và toàn bộ các vỏ bao gói là vật Nhà nước cấm lưu hành và vật không còn giá trị sử dụng.

[10] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn, đề nghị của người bào chữa về tội danh, điều luật áp dụng, hình phạt bổ sung và xử lý vật chứng là phù hợp với quy định nên chấp nhận. Về mức hình phạt, bị cáo không có tình tiết tăng nặng, có 02 tình tiết giảm nhẹ, lượng ma túy tàng trữ không lớn, đề nghị của người bào chữa cho bị cáo là phù hợp, đại diện Viện kiểm sát đề nghị có phần nghiêm khắc đối với bị cáo nên Hội đồng xét xử xét thấy cần cho bị cáo hưởng mức án thấp hơn mức đề nghị của đại diện Viện kiểm sát cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[11] Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo, bị cáo khai là người Trung Quốc và không biết họ tên, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được; do đó không có căn cứ xem xét trong vụ án này.

[12] Bị cáo là người bị kết án, theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Căn cứ các điều 331, 332 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136, các điều 331, 332 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nông Văn T phạm Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nông Văn T 01 (một) năm tù giam, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 01/3/2019.

3. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định (0,124 gam heroine) được để trong một phong bì niêm phong ký hiệu bằng chữ viết tay “QT Nông Văn T”, trên phong bì có chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Mạnh H, trợ lý giám định, đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn tại phần giáp lai mới và toàn bộ các vỏ bao gói.

(Vật chứng đang được lưu giữ tại Chi Cục thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 20/5/2019).

4. Về án phí: Bị cáo Nông Văn T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào ngân sách Nhà nước.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2019/HS-ST ngày 14/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:37/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Lãng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về