Bản án 37/2019/HNGĐ-ST ngày 20/09/2019 về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒA VANG, TP. ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 37/2019/HNGĐ-ST NGÀY 20/09/2019 VỀ TRANH CHẤP THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU KHI LY HÔN

Ngày 20 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 130/2019/TLST-HNGĐ ngày 18/7/2019 về việc “Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Bùi Viết A, sinh năm 1991; có mặt Địa chỉ: Tổ 37, phường H, quận L, TP. Đ Bị đơn: Bà Đỗ Thị Hồng D, sinh năm 1992; có mặt Địa chỉ: Thôn Q, xã H, huyện H, TP. Đ Địa chỉ liên lạc: Tổ 5, thôn V, xã H, huyện H, TP. Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai ngày 07/8/2019 và tại phiên tòa nguyên đơn ông Bùi Viết A trình bày:

Trước đây ông Bùi Viết A và bà Đỗ Thị Hồng D là vợ chồng, năm 2016 hai người ly hôn theo Quyết định số 25/2016/QĐST-HNGĐ ngày 03/3/2016 của Tòa án nhân dân quận L, TP. Đ. Theo đó, bà D là người được trực tiếp nuôi con là cháu Bùi Minh T, sinh ngày 24/9/2013, ông A có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ (một triệu đồng). Năm 2017 giữa ông A và bà D có thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, cụ thể là khi cháu T đủ 5 tuổi thì bà D giao lại cho ông A nuôi dưỡng. Thực hiện thỏa thuận đó ông A đã nuôi cháu T từ tháng 9/2017 cho đến náy. Bà D đi lấy chồng khác, có con với chồng sau, hiện nay bà D đang làm thủ tục ly hôn với người chồng sau, bà D không làm tròn trách nhiệm của người mẹ, không đủ khả năng và điều kiện để nuôi con. Sau khi cháu T về ở với ông A được ông A chăm sóc, cho học hành đầy đủ. Nay để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của con, ông A đề nghị thay đổi người trực tiếp nuôn con, không yêu cầu bà D cấp dưỡng nuôi con.

Tại bản tự khai ngày 07/8/2019, biên bản hòa giải và tại phiên tòa bị đơn bà Đỗ Thị Hồng D trình bày:

Bà Đỗ Thị Hồng D xác nhận lời trình bày của ông A về thời gian vợ chồng, ly hôn theo Quyết định số 25/2016/QĐST-HNGĐ ngày 03/3/2016 của Tòa án quận L là đúng, theo quyết định bà D là người trực tiếp nuôi con là cháu Bùi Minh T, sinh ngày 24/9/2013. Năm 2017 bà D và ông A có thỏa thuận, ông A là người trực tiếp nuôi con khi cháu T đủ 5 tuổi, nên ông A đã nuôi cháu T từ năm 2017 đến nay. Tuy nhiên, thỏa thuận đó chỉ có thời hạn đến khi cháu T đủ 07 tuổi. Quá trình ông A nuôi dưỡng cháu T, bà D vẫn tới chăm nom, chu cấp nuôi con, vẫn tìm hiểu về cuộc sống của cháu T và được biết ông A chưa chăm sóc con đầy đủ, giao con cho ông bà nội (ba mẹ ông A) nuôi, trong khi gia đình bên ông A lại đông anh, chị, em; ba mẹ ông A lại Tờng xuyên đau ốm. Nay ông A thay đổi người trực tiếp nuôi con, bà D không đồng ý, đề nghị vẫn giữ nguyên quyền nuôi con như Quyết định ly hôn trước đây.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, T ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều đảm bảo đúng những quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang đề nghị HĐXX áp dụng Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 chấp nhận đơn khởi kiện của ông Bùi Viết A.

Về cấp dưỡng nuôi con, ông A không yêu cầu nên không đề cập đến.

Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm bà Đỗ Thị Hồng D phải chịu theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, sau khi nghe các đương sự trình bày ý kiến; sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về vụ án, sau khi thảo luận và nghị án, HĐXX nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ông Bùi Viết A khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, TP. Đà Nẵng thụ lý giải quyết về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn đối với bị đơn bà Đỗ Thị Hồng D, trú tại: Thôn Q, xã H, huyện Hòa Vang, TP. Đà Nẵng và Tòa án đã thụ lý giải quyết đơn khởi kiện của ông A là đúng thẩm quyền được quy định tại Điều 28, Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Ông Bùi Viết A và bà Đỗ Thị Hồng D được Tòa án nhân dân quận L, TP. Đ giải quyết cho ly hôn theo Quyết định số 25/2016/QĐST-HNGĐ ngày 03/3/2016. Theo Quyết định bà D là người được trực tiếp nuôi con là cháu Bùi Minh T, sinh ngày 24/9/2013, tuy nhiên năm 2017 bà D và ông A đã có văn bản thỏa thuận thay đổi người trực tiếp nuôi con. Nay ông A đề nghị thay đổi người trực tiếp nuôi con, không yêu cầu bà D cấp dưỡng nuôi con. Bà D không đồng ý thay đổi người trực tiếp nuôi con mà đề nghị Tòa án giữ nguyên như quyết định ly hôn.

Hi đồng xét xử xét thấy, sau khi Quyết định ly hôn số 25/2016/QĐST-HNGĐ ngày 03/3/2016 có hiệu lực, năm 2017 ông A và bà D có văn bản thỏa thuận người trực tiếp nuôi cháu Bùi Minh T. Từ khi có văn bản thảo thuận ông A đã đón cháu T về nuôi dưỡng tại phường H, quận L, TP. Đà Nẵng, bà D thừa nhận điều đó, chính quyền địa phương nơi ông A cư trú đã có văn bản xác nhận cháu T đang ở với ông A.

Quá trình nuôi dưỡng, ông A chăm sóc và cho cháu T ăn, học rất tốt, trường mầm non Tiểu My nơi cháu học năm 2018 - 2019 chứng nhận cháu T được xếp loại giỏi, năm học 2019 cháu vào lớp một ông A đã làm thủ tục nhập học cho cháu T học tại trường Tiểu học Triệu Thị Trinh, hiện ông A đang sống độc thân, có việc làm cũng như thu nhập ổn định. Bà D là người được Tòa án giao trực tiếp nuôi cháu T nhưng lại không nuôi, bà D sau khi ly hôn đã lập gia đình mới và đã có con với người chồng sau, cuộc sống vợ chồng bà D không được suôn sẻ, tại biên bản xác minh ngày 04/9/2019 thể hiện bà D đã về nhà cha mẹ tại thôn V, xã H sinh sống, cháu T cũng không ở chung với bà D từ năm 2017 đến nay.

Bà D cho rằng trong thời gian ông A nuôi dưỡng cháu T, bà D vẫn tới chăm nom, chu cấp nuôi con, vẫn tìm hiểu về cuộc sống của cháu T và được biết ông A chưa chăm sóc con đầy đủ, giao con cho ông bà nội (ba, mẹ ông A) nuôi, trong khi gia đình bên ông A lại đông anh chị em, ba mẹ ông A lại Tờng xuyên đau ốm. Xét thấy, việc cháu T ở cùng với gia đình ông A, ông bà nội, trong quá trình nuôi dưỡng ông bà nội cùng với ông A chăm sóc, nuôi dưỡng cháu T đây là trách nhiệm cũng như quyền và nghĩa vụ của các thành viên sống chung trong một gia đình và phù hợp với các quy định của Điều 103, 104 Luật hôn nhân và gia đình. Tại phiên tòa, bà D cũng không đưa ra được tài liệu, chứng cứ nào chứng minh ông A chăm sóc cháu T không đầy đủ.

Để không làm xáo trộn cuộc sống của cháu T, cũng như để đảm bảo về mọi mặt của con, thiết nghĩ việc yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con của ông Bùi Viết A là phù hợp.

Căn cứ Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện của ông Bùi Viết A.

Về cấp dưỡng nuôi con, ông A không yêu cầu bà D cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Bên không trực tiếp nuôi con chung được thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật

[3] Về án phí HNGĐ sơ thẩm bà D phải chịu theo quy định pháp luật.

[4] Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang, TP. Đà Nẵng đề nghị phù hợp với các nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Vào các điều 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình; Điều 147, Điều 266 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Viết A đối với bà Đỗ Thị Hồng D về việc “Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.

Giao con chung Bùi Minh T, sinh ngày 24/9/2013 cho ông Bùi Viết A trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Đỗ Thị Hồng D không cấp dưỡng nuôi con.

Bên không trực tiếp nuôi con chung được thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật.

2. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) bà Đỗ Thị Hồng D phải chịu, nhưng ông A xin tự nguyện chịu nộp thay bà D nên được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng ông A đã nộp tại biên lai thu số 0002415 ngày 17/7/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hòa Vang.

3. Các đương sự được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 20/9/2019.

Trong trường hợp bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

298
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2019/HNGĐ-ST ngày 20/09/2019 về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

Số hiệu:37/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoà Vang - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về