Bản án 36/2021/HNGĐ-ST ngày 22/04/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG MỸ, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 36/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/04/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 22 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 302/2020/TLST- HNGĐ ngày 15 tháng 12 năm 2020 về “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 41/2021/QĐST-HNGĐ ngày 31 tháng 3 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Huỳnh Văn P, sinh năm 1974; cư trú tại: Ấp B, xã P, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang.

- Bị đơn: Chị Phạm Thị L, sinh năm 1972; cư trú tại: Ấp B, xã P, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang.

Nguyên đơn có mặt; bị đơn vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn anh Huỳnh Văn P trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Phạm Thị L có tổ chức đám cưới và sống chung với nhau như vợ chồng vào năm 2001, đến nay chưa có đăng ký kết hôn theo quy định. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc, đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống vợ chồng nên thường xuyên cự cãi dẫn đến đời sống chung không hạnh phúc. Anh cũng đã tạo điều kiện để hàn gắn mối quan hệ vợ chồng nhưng không thành, anh và chị L không còn sống chung với nhau được nữa. Nay anh yêu cầu được ly hôn với chị L.

Về con chung: Anh và chị L có 02 con chung là Huỳnh Phước D (giới tính: nam) sinh ngày 05/5/2002 và Huỳnh Bảo N (giới tính: nam), sinh ngày 28/12/2009; các con hiện đang sống chung với anh. Khi ly hôn anh yêu cầu được nuôi dưỡng con chung là cháu Huỳnh Bảo N, không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con; còn cháu Huỳnh Phước D đã trưởng thành, không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, bị đơn Phạm Thị L đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không lý do nên không ghi nhận được ý kiến của chị L.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang trình bày quan điểm:

Về thủ tục tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, các đương sự đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn Phạm Thị L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do; đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227, 228, 233 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn.

Về nội dung vụ án: Anh P khẳng định mâu thuẫn giữa anh và chị L ngày càng trầm trọng, anh không còn tình cảm vợ chồng với chị L nên yêu cầu giải quyết cho chị được ly hôn. Do mâu thuẫn vợ chồng giữa anh P và chị L không thể hàn gắn được nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; không công nhận quan hệ vợ chồng giữa anh P và chị L. Về con chung: giao cháu Huỳnh Bảo N cho anh P nuôi dưỡng, anh P không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Anh P xác định không có, không yêu cầu giải quyết. Về án phí, buộc đương sự phải chịu theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về thủ tục tố tụng:

[1]. Anh Huỳnh Văn P và chị Phạm Thị L sống chung với nhau như vợ chồng từ năm 2001 nhưng không có đăng ký kết hôn, quá trình anh chị chung sống phát sinh mẫu thuẫn nên yêu cầu giải quyết ly hôn và nuôi con chung. Xác định đây là quan hệ pháp luật “Tranh chấp về ly hôn, nuôi con”. Căn cứ Điều 28, 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang.

[2]. Đối với bị đơn chị Phạm Thị L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng tại phiên tòa vắng mặt không có lý do. Căn cứ quy định tại Điều 227, 228, 233 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn Phạm Thị L nhưng vẫn đảm bảo quyền, nghĩa vụ của đương sự theo quy định pháp luật.

Về nội dung vụ án:

[3]. Về quan hệ hôn nhân:

Anh Huỳnh Văn P và chị Phạm Thị L tự nguyện sống chung với nhau như vợ chồng từ năm 2001, không có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật nên không được xem là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống anh P và chị L phát sinh mâu thuẫn không thể hàn gắn được nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

Quá trình giải quyết vụ án, anh P xác định do bất đồng quan điểm trong cuộc sống vợ chồng nên giữa anh và chị L thường hay cự cãi dẫn đến hôn nhân không hạnh phúc. Hai bên đã tìm cách hàn gắn mối quan hệ vợ chồng nhưng không thành, đã không còn chung sống với nhau năm 2017 đến nay. Căn cứ vào lời trình bày của đương sự, căn cứ vào tài liệu chứng cứ trong hồ sơ, qua kết quả xác minh có đủ cơ sở kết luận: Quan hệ tình cảm vợ chồng giữa anh P và chị L thật sự có mâu thuẫn trầm trọng, vợ chồng không còn thương yêu, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, không cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc. Từ đó cho thấy, đời sống chung của vợ chồng anh P và chị L không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do anh P và chị L không có đăng ký kết hôn theo quy định nên căn cứ khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình; Hội đồng xét xử thống nhất tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa anh P và chị L.

[4]. Về con chung: Anh P và chị L có 02 con chung là Huỳnh Phước D (giới tính: nam), sinh ngày 05/5/2002 và Huỳnh Bảo N (giới tính: nam), sinh ngày 28/12/2009. Cháu Huỳnh Phước D đã trưởng thành, anh P không yêu cầu giải quyết nên không xem xét; còn cháu Huỳnh Bảo N hiện đang sống chung với anh P, khi ly hôn anh P yêu cầu được nuôi dưỡng cháu N. Theo kết quả ghi nhận ý kiến thì cháu N có nguyện vọng sống chung với anh P; và từ khi anh P và chị L không còn chung sống đến nay thì cháu N do anh P trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Vì vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung; để đảm bảo lợi ích, sự ổn định trong cuộc sống và sự phát triển toàn diện về tâm sinh lý của trẻ; Căn cứ Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử thống nhất giao cháu Huỳnh Bảo N cho anh P nuôi dưỡng. Anh P không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét. Chị L có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi về việc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

[5]. Về tài sản chung, nợ chung: Anh P xác định không có, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[6]. Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Anh Huỳnh Văn P phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Từ những nhận định nêu trên, có căn cứ chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 233 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Áp dụng Điều 14, 53, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Huỳnh Văn P.

1. Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa anh Huỳnh Văn P và chị Phạm Thị L.

2. Về con chung: Anh Huỳnh Văn P được quyền nuôi dưỡng con chung là Huỳnh Bảo N (giới tính: nam) sinh ngày 28/12/2009. Anh Huỳnh Văn P không yêu cầu chị Phạm Thị L cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét. Chị Phạm Thị L có quyền, nghĩa vụ, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Anh Huỳnh Văn P xác định không có, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

4. Về án phí: Anh Huỳnh Văn P phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Khấu trừ tiền tạm ứng án phí anh Phương đã nộp theo biên lai thu tiền số 0006666 lập ngày 15/12/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang thành án phí.

5. Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết, tống đạt theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

238
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2021/HNGĐ-ST ngày 22/04/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:36/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Long Mỹ - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về