Bản án 36/2019/HSST ngày 28/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG CHÀ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 36/2019/HSST NGÀY 28/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở TAND huyện MC, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 34/2019/TLST-HS ngày 13 tháng 8 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án nhân dân huyện MC số: 36/2019/QĐXXST- HS ngày 15 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Khoàng Văn T (tên gọi khác: không), sinh năm 1978, tại huyện MC , tỉnh Điện Biên.

Nơi cư trú: Bản NH 2, xã MT, huyện MC, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Làm ruộng, nương; trình độ văn hóa: không; Dân tộc: Thái; Giới T: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Khoàng Văn L (đã chết), con bà Lò Thị Đ, sinh năm: 1945; vợ: Sìn Thị N, sinh năm 1979; bị cáo có 02 người con, con lớn sinh năm 1998, con nhỏ sinh năm 2004 ; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Chưa bị kết án, chưa bị xử lý vi phạm hành chính; bị cáo bị bắt tạm giữ, tam giam ngày 06/6/2019. Có mặt tại phiên tòa

Người bào chữa cho bị cáo: ông Phùng Việt H. Luật sư, Cộng tác viên của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên, Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: bà Sìn Thị N, sinh năm: 1979. Nơi cư trú: Bản NH 2, xã MT, huyện MC, tỉnh Điện Biên. có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 10 giờ 30 phút ngày 06/6/2019 Khoáng Văn T đi xe máy Honda Wave S BKS 27V1 - 058.97 từ bản Nậm He 2, xã Mường Tùng đi vào khu Ít Co Mạ thuộc bản Nậm Piền, xã Mường Tùng để tìm mua Heroine về sử dụng. Khi đến bản T gặp hỏi mua của một người đàn ông dân tộc Mông 50.000 đồng (Năm mươi nghìn đồng), được một gói Heroine, được gói bằng túi ni lon màu hồng, có khối lượng 0,422 gam, T cho gói Heroine vào túi áo ngực đang mặc trên người sau đó đi xe về nhà, trên đường về đến bản Nậm He 1, xã MTthì bị tổ công tác Công an huyện MC phối hợp với Công an xã Mường Tùng bắt quả tang thu giữ toàn bộ vật chứng.

Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu gửi giám định xác định khối lượng chất bột nén màu trắng đục nghi là heroine có khối lượng 0,422 gam. Trích mẫu giám định 0,056 gam.

Tại bản Kết luận giám định số: 589/GĐ-PC09, ngày 14/6/2019, của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Điện Biên kết luận: “ mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Khoàng Văn T gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine.

Tại Bản Cáo trạng số: 36/CT-VKS-MC ngày 12/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân, huyện MC, tỉnh Điện Biên đã truy tố bị cáo Khoàng Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện MC, tỉnh Điện Biên giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Khoàng Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử sơ thẩm:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo Khoàng Văn T từ 15 đến 18 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án. Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự để xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm hình sự cho bị cáo Khoàng Văn T Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến tranh luận về tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát nhân dân huyện MC đã truy tố và bản luận tội của Kiểm sát viên. Đề nghị HĐXX xem xét đến điều kiện sinh sống của bị cáo: Do bị cáo sinh sống ở vùng đặc biệt khó khăn; bản thân không được đi học nên trình độ và nhận thức có phần hạn chế, có nhân thân tốt, lần đầu tiên phạm tội, số ma túy tàng trữ có số lượng nhỏ đã bị cơ quan công an thu giữ nên hậu quả đã bị ngăn chặn, hoàn cảnh kinh tế khó khăn; trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội nên đề nghị HĐXX xem xét áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS xử phạt bị cáo ở mức án thấp nhất do Viện kiểm sát đề nghị là 15 tháng tù để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội và xem xét miễn án phí và hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1. Tại phiên tòa, bị cáo Khoàng Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. HĐXX thấy rằng lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa đã phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và Biên bản bắt người phạm tội quả tang và biên bản niêm phong xác định khối lượng vật chứng và kết quả giám định, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện MC, tỉnh Điện Biên thu thập trong quá trình giải quyết vụ án. Lời khai của bị cáo cũng phù hợp với lời khai của người có nghĩa vụ liên quan. Do đó có đủ căn cứ để xác định Hồi 12 giờ ngày 06 tháng 6 năm 2019, tại bản NH 1, xã MT, huyện MC, tổ công tác Công an huyện MC phối hợp với Công an xã Mường Tùng bắt quả tang Khoàng Văn T đang tàng trữ trái phép 0,422 gam Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân. HĐXX thấy rằng hành vi nêu trên của bị cáo Khoàng Văn T là nguy hiểm cho xã hội, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy " quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do pháp luật quy định. Hành vi tàng trữ 0,442 gam Heroine của bị cáo đã phạm vào tình tiết định khung quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS. Viện kiểm sát nhân dân huyện MC truy tố và kết luận bị cáo phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan, sai. Về tội danh và khung hình phạt người bào chữa cho bị cáo đồng thuận và không tranh luận với kết luận của đại diện Viện kiểm sát.

2. Xét về tính chất của vụ án và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Hội đồng xét xử thấy rằng: Tình hình tội phạm ma túy ngày càng diễn biến phức tạp, mặc dù cơ quan pháp luật đã truy quét và xử lý nghiêm minh đối với các loại tội phạm này. Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận bị cáo biết việc Nhà nước cấm tất cả các hành vi mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép các chất ma túy, biết tác hại của ma túy đối với đời sống sức khỏe của con người, nhưng để thỏa mãn nhu cầu nghiện ma túy của bản thân bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, hành vi phạm tội của bị cáo đã làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội trên địa bàn huyện MC và góp phần làm cho ma túy tồn tại và phát triển. Bởi vậy, cần áp dụng một mức hình phạt tương xứng với hành vi, tính chất, mức độ, hậu quả của do bị cáo phạm tội gây ra, để cải tạo giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa tội phạm trong tình hình hiện nay.

Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử thấy rằng tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, tỏ ra ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của bản thân. Bởi vậy hội đồng xét xử xét thấy cần xem xét áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS, để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là cần thiết, thông qua đó thể hiện chính sách khoan hồng, giảm nhẹ của pháp luật đối với người phạm tội.

Ngoài hình phạt chính, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cấm đảm nhận chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, theo các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án (biên bản xác minh thu nhập, tài sản) và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, thu nhập đi làm thuê mướn, không có nguồn thu nhập nào khác, điều kiện kinh tế còn gặp nhiều khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo. Người bào chữa cho bị cáo đề nghị HĐXX áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS và xem các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ theo qui định tại khoản 2 Điều 51/BLHS để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo HĐXX thấy rằng đề nghị của người bào chưa và đề nghị của kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ nên cần chấp nhận một phần.

3. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an huyện MC, tỉnh Điện Biên, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân nhân huyện MC; trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện theo đúng quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người bào chữa cho bị cáo không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng với qui định của pháp luật.

4. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Số lượng heroine bị thu giữ sau khi trừ mẫu giám định là vật cấm tàng trữ, lưu hành cần tịch thu để tiêu hủy.

- Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu sơn đen - sám biển kiểm soát 27V1- 058.97 số khung RLHJC5266DY085119, số máy JC52E-1258479 bị cáo sử dụng đi mua ma túy, HĐXX thấy rằng: Đăng ký xe mang tên bị cáo, lời khai của bị cáo và của vợ bị cáo là chị Sìn Thị N đều khai nhận chiếc xe do vợ chồng bị cáo mua được từ tiền tích góp của hai vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân do vậy hội đồng xét xử xác định đây là tài sản chung của vợ chồng, bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội nên cần tịch thu 1/2 giá trị của chiếc xe máy cùng với giấy đăng ký xe mang tên Khoàng Văn T sung ngân sách nhà nước, trả lại ½ giá trị chiếc xe cho chủ sở hữu chung là chị Sìn Thị Nơi.

- Một số giấy tờ, vật dụng như 01 ví da màu nâu đã qua sử dụng, tiền VNĐ số lượng 11.000 đồng, 01 điện thoại nhãn hiệu Vell.com màu đen viền màu cam; 01 giấy phép lái xe mang tên Khoàng Văn T, 01 giấy bảo hiểm xe máy không phải là công cụ phương tiện phạm tội cần trả lại cho bị cáo.

- Tịch thu tiêu hủy một số vật dụng không còn giá trị sử dụng là 02 con dao lam đã qua sử dụng, 01 mảnh giấy bạc, 01 bật lửa ga.

5. Về án phí:

Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Khoàng Văn T do bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn.

Đi với người có nghĩa vụ liên quan là Sìn Thị N là vợ của bị cáo có đưa cho bị cáo 50.000 đồng bị cáo sử dụng mua ma túy, chị Nơi không biết việc bị cáo dùng tiền mua ma túy nên HĐXX không xem xét xử lý trong cùng vụ án; chiếc máy BKS 27V1 - 058.97 là tài sản chung của bị cáo và chị Nơi bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội cần trả lại cho chị Sìn Thị Nơi ½ giá trị chiếc xe.

Người đàn ông bán heroine cho bị cáo, bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ nên không có cơ sở để điều tra làm rõ. HĐXX không xem xét giải quyết trong vụ án này.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Khoàng Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Khoàng Văn T 18 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được T từ ngày bắt (06/06/2019).

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu để tiêu hủy 0,366 gam heroine - Tịch thu sung ngân sách nhà nước 1/2 giá trị của chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu sơn đen - sám biển kiểm soát 27V1- 058.97 số khung RLHJC5266DY085119, số máy JC52E-1258479 kèm theo giấy đăng ký xe mang tên Khoàng Văn T.

- Trả chị Sìn Thị Nơi có địa chỉ tại Bản Nậm He 2, xã Mường Tùng, huyện MC, tỉnh Điện Biên ½ giá trị chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu sơn đen - sám biển kiểm soát 27V1- 058.97 số khung RLHJC5266DY085119, số máy JC52E-1258479 - Trả bị cáo Khoàng Văn T một 01 ví da màu nâu đã qua sử dụng, tiền VNĐ số lượng 11.000 đồng, 01 điện thoại nhãn hiệu Vell.com màu đen viền màu cam; 01 giấy phép lái xe, 01 giấy bảo hiểm xe máy mang tên Khoàng Văn T.

- Tịch thu tiêu hủy là 02 con dao lam đã qua sử dụng, 01 mảnh giấy bạc, 01 bật lửa ga.

(Theo Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu ngày 02/8/2019 và Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện MC và Chi cục Thi hành án dân sự huyện MC, tỉnh Điện Biên ngày 13/8/2019).

3. Về án phí:

Căn cứ vào Điều 135, Điều 136/BLTTHS; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với Khoàng Văn T

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào các Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 28/8/2019).

Ni có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo những vấn đề có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 28/8/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2019/HSST ngày 28/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:36/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Chà - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về