Bản án 361/2018/DS-ST ngày 03/08/2018 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 

BẢN ÁN 361/2018/DS-ST NGÀY 03/08/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 03 tháng 8 năm 2018 tại Tòa án nhân dân Quận 7, xét xử sơ thẩm côngkhai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 350/2017/TLST-DS ngày 21 tháng 11 năm 2017 về việc “Tranh chấp Hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 153/2018/QĐXXST-DS ngày 18 tháng 7 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng A; Địa chỉ: A, Phường N, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; Địa chỉ liên lạc: Lầu 8, Tòa nhà A, Phường M, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Châu Văn H– Là người đại diện theo ủy quyền (Giấy ủy quyền số 1049/UQ-QLN.17 ngày 05/12/2017) - có mặt.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Phúc Hoàng V; Địa chỉ: P Đường T, Khu phố B, phường T, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh - vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn tại đơn khởi kiện ngày 20/10/2017 và trong quá trình giải quyết, xét xử vụ án nguyên đơn Ngân hàng A có ông Châu Văn H là người đại diện theo ủy quyền trình bày: Ngân hàng A (viết tắt là nguyên đơn) có ký kết với ông Nguyễn Phúc Hoàng V (viết tắt là bị đơn) Hợp đồng tín dụng trả góp số NGC.CN.793.210316 ngày 22/03/2015 với nội dung: đồng)

- Nguyên đơn cho bị đơn vay với mục đích tiêu dùng tín chấp.

- Số tiền vay: 35.000.000 đồng

- Thời hạn vay là 60 tháng, kể từ ngày bị đơn nhận tiền vay.

- Mức lãi suất: 11%/năm (tính theo số tiền vay ban đầu)

- Lãi suất quá hạn: bằng 150% lãi suất trong hạn

- Phí phạt vi phạm: 200.00 đồng/kỳ trễ hạn

- Trả vốn và lãi vay định kỳ hàng tháng (Vốn 583.333 đồng, lãi 320.667

- Nếu bị đơn vi phạm Hợp đồng tín dụng thì nguyên đơn có quyền chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn.

Thực hiện Hợp đồng tín dụng, Ngân hàng đã giải ngân cho bị đơn số tiền 35.000.000 đồng và bị đơn đã thanh toán cho ngân hàng 06 kỳ với tổng số vốn gốc đã trả là 3.499.998 đồng và lãi 1.924.022 đồng. Do bị đơn vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên nguyên đơn đã ra thông báo thu hồi nợ trước hạn và chuyển toàn bộ số nợ vay bị đơn chưa trả sang nợ quá hạn.

Tính đến ngày 03/8/2018 bị đơn còn nợ nguyên đơn các khoản tiền sau: Nợ gốc: 31.500.002 đồng Nợ lãi trong hạn: 2.856.214 đồng Nợ lãi quá hạn: 5.890.500 đồng. Phạt chậm trả: 1.600.000 đồng Tổng cộng: 41.865.816 đồng.

Nay nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải có trách nhiệm thanh toán một lần toàn bộ số nợ nói trên ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra, bị đơn còn phải thanh toán đầy đủ số tiền lãi phát sinh theo lãi suất quy định tại Hợp đồng tín dụng trả góp số NGC.CN.793.210316 ngày 22/03/2015 cho đến khi thanh toán hết nợ.

Về phía bị đơn ông Nguyễn Phúc Hoàng V, trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân Quận 7 đã nhiều lần triệu tập ông V đến trụ sở Tòa án để giải quyết vụ kiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng ông V vẫn vắng mặt không có lý do, không có ý kiến phản hồi mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ. Do đó, Tòa án không thể tiến hành lấy lời khai cũng như hòa giải theo quy định pháp luật.

Ý kiến của Viện kiểm sát Nhân dân Quận 7:

- Về tố tụng: Thẩm phán thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và quyết định đưa vụ án ra xét xử đều bảo đảm đúng quy định về thời hạn, nội dung, thẩm quyền của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng trình tự, thủ tục đối với phiên tòa dân sự. Nguyên đơn đã chấp hành theo quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của mình. Bị đơn không chấp hành theo quy định của pháp luật.

- Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào hợp đồng đã ký giữa 02 bên cho thấy việc ký kết hợp đồng giao dịch là tự nguyện, phù hợp quy đinh của pháp luật. Do ông V vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn Ngân hàng A buộc Nguyễn Phúc Hoàng V phải thanh toán số tiền nợ còn lại là 41.856.816 đồng (Bốn mươi mốt triệu tám trăm năm mươi sáu nghìn tám trăm mười sáu đồng) bao gồm nợ gốc là 31.500.002 đồng và nợ lãi là 10.365.814 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Căn cứ kết quả trả lời của Công an phường Tân Hưng tại Phiếu yêu cầu xác minh số 35/TAQ7 ngày 18/01/2017 của Tòa án nhân dân Quận 7 thì “Ông Nguyễn Phúc Hoàng V, SN: 1986 có hộ khẩu thường trú tại P Đường T, Khu phố B, phường T như yêu cầu xác minh. Trước đây, có cư ngụ tại địa chỉ trên nhưng đã bỏ địa phương từ năm 2015 đến nay. Nơi đến: không rõ, nhà đã bán.”. Như vậy, nguyên đơn đã ghi đầy đủ và đúng về nơi cư trú của bị đơn nhưng bị đơn không thông báo cho nguyên đơn về nơi cư trú mới, căn cứ vào Điểm e Khoản 1 Điều 19Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.

Nguyên đơn Ngân hàng khởi kiện yêu cầu bị đơn trả lại số tiền đã vay và bị đơn ông Nguyễn Phúc Hoàng V hiện cư trú tại Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là tranh chấp về hợp đồng tín dụng là loại tranh chấp được quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh theo Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

Ông Nguyễn Phúc Hoàng V vắng mặt không có lý do, không có ý kiến phản hồi và thuộc trường hợp đã được tống đạt, thông báo hợp lệ các văn bản tố tụng để tham gia giải quyết vụ án, tham gia phiên tòa nên Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt ông V theo điểm b Khoản 2 Điều 227; Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015. Căn cứ Khoản 4 Điều 91, Điều 95, Điều 96 và Điều 108 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì bị đơn đã tự ý tước bỏ các quyền tự chứng minh, trình bày ý kiến của mình và chịu hậu quả của việc không chứng minh nên Hội đồng xét xử căn cứ vào yêu cầu và tài liệu chứng cứ của nguyên đơn để làm cơ sở giải quyết vụ án.

[3] Về yêu cầu khởi kiện của đương sự:

Tại đơn khởi kiện ngày 20/10/2017 và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả số tiền 41.865.816 đồng (Bốn mươi mốt triệu tám trăm sáu mươi lăm ngàn tám trăm mười sáu đồng), trong đó: số tiền nợ gốc là 31.500.002 đồng; và nợ lãi tính đến ngày 03/8/2018 là 10.365.814 đồng; yêu cầu trả làm một lần sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra bị đơn còn phải thanh toán tiền lãi phát sinh từ ngày 04/8/2018 cho đến khi trả hết nợ theo quy định tại Hợp đồng tín dụng trả góp số NGC.CN.793.210316 ngày 22/03/2015.

Căn cứ theo các quy định và các văn bản hai bên đã ký kết, xét thấy có đủ cơ sở xác định Ngân hàng A có cho ông V vay số tiền là 35.000.000 đồng. Quá trình thực hiện hợp đồng ông V chỉ thanh toán được số tiền gốc là 3.499.998 đồng và lãi 1.924.022 đồng. Do ông V vi phạm nghĩa vụ thanh toán tại Điều 5 của Hợp đồng tín dụng trả góp số NGC.CN.793.210316 ngày 22/03/2015, ngày 26/02/2016 Ngân hàng đã thu hồi nợ trước hạn vay và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn theo Điều 5 của Hợp đồng tín dụng trả góp số NGC.CN.793.210316 ngày 22/03/2015 là phù hợp với quy định của pháp luật và thỏa thuận của hai bên trong Hợp đồng tín dụng trả góp số NGC.CN.793.210316 ngày 22/03/2015. Do đó, yêu cầu của nguyên đơn là Ngân hàng A yêu cầu ông Nguyễn Phúc Hoàng V trả tổng số tiền là 41.865.816 đồng (Bốn mươi mốt triệu tám trăm sáu mươi năm nghàn tám trăm mười sáu đồng), trong đó: số tiền nợ gốc là 31.500.002 đồng; và nợ lãi tính đến ngày 03/8/2018 là 10.365.814 đồng làm một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật và tiền lãi phát sinh từ ngày 04/8/2018 cho đến khi trả hết nợ theo mức lãi suất nợ quá hạn do các bên đã thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng trả góp số NGC.CN.793.210316 ngày 22/03/2015 là có cơ sở chấp nhận theo quy định tại Khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Do yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn số tiền 41.865.816 đồng (Bốn mươi mốt triệu tám trăm sáu mươi năm nghàn tám trăm mười sáu đồng) và tiền lãi phát sinh từ ngày 04/8/2018 được chấp nhận nên phía bị đơn phải chịu tiền án phí theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là 2.093.291 (Hai triệu không trăm chín mươi ba nghìn hai trăm chín mươi mốt) đồng.

Hoàn lại nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí đã đóng theo quy định của pháp luật.

[4] Quyền kháng cáo: Ngân hàng A và ông Nguyễn Phúc Hoàng V có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[5] Kiểm sát viên đề nghị chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là phù hợp với nhận định trên của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 3 Điều 26; Điểm a khoản 1 Điều 35; Khoản 1 Điều 39; Khoản 4 Điều 91; Điều 147; Khoản 1 Điều 207; Điểm b Khoản 2 Điều 227; Khoản 3 Điều 228 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ khoản 2 Điều 91, Khoản 1 Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010;

Căn cứ Luật phí, lệ phí và Khoản 1 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;

Căn cứ vào Điều 26 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung 2014;

Xử:

1. Về hình thức: Xử vắng mặt bị đơn ông Nguyễn Phúc Hoàng V.

2. Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng A.

2.1. Buộc ông Nguyễn Phúc Hoàng V phải thanh toán cho Ngân hàng A tổng số nợ còn thiếu là 41.865.816 đồng (Bốn mươi mốt triệu tám trăm sáu mươi năm nghàn tám trăm mười sáu đồng), trong đó: trong đó: số tiền nợ gốc là 31.500.002 (Ba mươi mốt triệu năm trăm ngàn không trăm lẻ hai) đồng và nợ lãi tính đến ngày 03/8/2018 là 10.365.814 (Mười triệu ba trăm sáu mươi lăm ngàn tám trăm mười bốn) đồng; trả làm một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực thi hành.

Kể từ ngày 04 tháng 8 năm 2018, ông Nguyễn Phúc Hoàng V còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng trả góp số NGC.CN.793.210316 ngày 22/03/2015.

2.2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Ông Nguyễn Phúc Hoàng V phải chịu 2.093.291 (Hai triệu không trăm chín mươi ba nghìn hai trăm chín mươi mốt) đồng án phí dân sự sơ thẩm, nộp tại Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Hoàn lại Ngân hàng A số tiền tạm ứng án phí đã đóng là 937.526 đồng (Chín trăm ba mươi bảy nghìn năm trăm hai mươi sáu đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2017/0024643 ngày 21/11/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.

2.3. Quyền yêu cầu thi hành án, thời hiệu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án: Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 1, Điều 2 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

2.4. Quyền kháng cáo:

Nguyên đơn Ngân hàng A được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn ông Nguyễn Phúc Hoàng V có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

138
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 361/2018/DS-ST ngày 03/08/2018 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:361/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 7 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 03/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về