Bản án 35/2021/HS-ST ngày 30/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG XOÀI, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 35/2021/HS-ST NGÀY 30/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 20/2021/TLST-HS ngày 04 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2021/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Anh S; tên gọi khác: Không, sinh năm 1997; hộ khẩu thường trú: huyện Thạch T, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Lê Văn Th, sinh năm 1964 và bà Đào Thị L, sinh năm 1965; Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/11/2020 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

-Những người làm chứng:

+ Lê Thị Kiều M, sinh năm: 2000, địa chỉ: Huyện Thới B, tỉnh Cà Mau

+ Hoàng Văn D, sinh năm: 2000, địa chỉ: xã Tân T, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước

+ Vũ Văn Ph, sinh năm: 1994, địa chỉ: xã An Th, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương

+ Đoàn Minh Q, sinh năm: 1995, địa chỉ: xã Tiến H, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước.

+ Hoàng Xuân Th, sinh năm: 1997, địa chỉ: thị trấn Tân P, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước

+ Đồng Như T, sinh năm: 2002, địa chỉ: xã Đại L, thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng

+ Lý Hoàng H, sinh năm: 1995, địa chỉ:xã Nghĩa T, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước.

+ Hồ Minh Ch, sinh năm: 1945, địa chỉ: xã Tiến H, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước.

+ Nguyễn Thúy V sinh năm: 1989, địa chỉ: thành phố Đ, tỉnh Bình Phước. Tất cả đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do là người thường xuyên sử dụng trái phép chất ma túy nên vào khoảng 20 giờ 00 phút ngày 06/11/2020 Lê Anh S đón xe ôm đến quán cà phê (không rõ tên) thuộc thị trấn Tân P, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước gặp 01 người đàn ông tên thường gọi là C (không rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua 1.000.000 đồng ma túy (700.000 đồng thuốc lắc, 300.000 đồng ma túy đá) thì C đồng ý. S đưa cho C 1.000.000 đồng, C đi khoảng 15 phút sau quay lại đưa cho S 01 bọc nylon miệng kéo dính bên trong có 04 viên thuốc lắc màu tím và 01 gói nylon hàn kín các mép bên trong chứa ma túy đá. Sau khi mua được ma túy, S cất vào túi quần đang mặc rồi đón xe ôm về phòng trọ thành phố Đồng Xoài (S ở cùng với Hoàng Văn D và Lâm Kiều M. Lúc này, trong phòng không có ai nên S lấy bọc ma túy chứa 04 viên thuốc lắc quấn bên ngoài đoạn băng keo màu đỏ rồi cất vào túi quần bên phải đang mặc. Sau đó, S lấy một ít ma túy đá ra sử dụng, số còn lại S hàn kín các mép rồi cất vào túi bên trái quần đang mặc. Đến 00 giờ 15 phút ngày 7/11/2020, S, D và M đang ở trong phòng thì có Vũ Văn Ph, Đoàn Minh Q, Hoàng Xuân Th, Đồng Như T và Lý Hoàng H đến phòng của S chơi. Khoảng 00h 30’ cùng ngày, lực lượng Công an thành phố Đồng Xoài kết hợp Công an xã Tiến Hưng kiểm tra hành chính nơi ở của Sơn. Qua kiểm tra phát hiện trong túi quần bên phải của S đang mặc có: 01 bọc nylon miệng kéo dính, kích thước 7,5x4cm bên ngoài quấn băng keo màu đỏ, bên trong chứa 04 viên nén màu tím, trong túi quần bên trái của S đang mặc có 01 gói nylon hàn kín các mép kích thước 3,5x1cm bên trong chứa tinh thể màu trắng (S khai là ma túy) nên lực lượng Công an đã tiến hành lâp biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại bản kết luận giám định số 244/2020/GĐ-MT ngày 11/11/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước kết luận: 04 viên nén màu tím tròn có trong túi nylon (ký hiệu M1) được niêm phong gửi giám định là chất ma túy loại Ketamine khối lượng: 0,8576 gam; Tinh thể màu trắng có trong 01 gói nylon hàn kín (ký hiệu M2) được niêm phong gửi giám định là chất ma túy loại Methamphetamine khối lượng: 0,4285 gam. Methamphetamine là chất ma túy thuộc danh mục II, số thứ tự 323; Ketamine là chất ma túy thuộc Danh mục III số thứ tự 35, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Tại Bản cáo trạng số 31/CT-VKS ngày 04/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đồng Xoài đã truy tố bị cáo Lê Anh S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Anh S mức án từ 15- 18 tháng tù; Về hình phạt bổ sung: không áp dụng; Vật chứng: Đề nghị tuyên tịch thu tiêu hủy bì thư đựng ma túy còn lại sau giám định, trả lại cho bị cáo 100.000đồng và 01 điện thoại di động Oppo màu tím đã cũ.

Bị cáo S tại phiên tòa thừa nhận hành vi phạm tội, không tranh luận, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Xoài, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến và khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa Lê Anh S khai nhận khoảng 20 giờ 00 phút ngày 06/11/2020 bị cáo mua của người tên Cò tại thị trấn Tân Phú, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước 1.000.000đồng được 04 viên thuốc lắc màu tím và 01 gói nylon ma túy đá. Sau đó bị cáo đón xe về phòng trọ xã Tiến H, thành phố Đồng Xoài lấy bọc ma túy chứa 04 viên thuốc lắc ra dùng băng keo màu đỏ quấn bên ngoài rồi cất vào túi quần bên phải đang mặc và lấy một ít ma túy đá ra sử dụng, số còn lại hàn kín các mép cất vào túi quần bên trái. Đến 00 giờ 15 phút ngày 07/11/2020, bị cáo và Hoàng Văn D, Lê Kiều M (D, M ở chung phòng) đang ở trong phòng thì có Vũ Văn Ph, Đoàn Minh Q, Hoàng Xuân Th, Đồng Như T và Lý Hoàng H đến chơi. Khoảng 00h 30’ cùng ngày, Cơ quan công an kiểm tra hành chính, khám xét phát hiện hai bên túi quần của bị cáo đang mặc có số ma túy bị cáo cất giấu trước đó.

[3] Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng vụ án; kết luận giám định số 244/2020/GĐ-MT ngày 11/11/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước xác định: 04 viên nén màu tím tròn có trong túi nylon (ký hiệu M1) là chất ma túy loại Ketamine, khối lượng 0,8576 gam; Tinh thể màu trắng có trong 01 gói nylon (ký hiệu M2) là chất ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,4285 gam; phù hợp với bản kết luận điều tra cùng các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa; phù hợp về thời gian, địa điểm và phương thức thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, Hội đồng xét xử có cơ sở kết luận hành vi bị cáo Lê Anh S thực hiện cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[4] Xét về lỗi: Bị cáo thực hiện hành với lỗi cố ý trực tiếp, là người có đủ năng lực hành vi dân sự buộc bị cáo phải nhận thức được việc cất giấu ma túy để sử dụng là hành vi vi phạm pháp luật và sẽ bị pháp luật nghiêm trị. Nhưng để thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân, bị cáo cố tình thực hiện. Đây là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy sử dụng trong y học của Nhà nước, làm ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội, ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của chính bị cáo và sự phát triển lành mạnh nói chung của con người. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ do hành vi và hậu quả bị cáo gây ra.

[5] Tình tiết tăng nặng: không [6] Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối lỗi về hành vi đã thực hiện, tự nguyện giao nộp số ma túy cất giữ trên người, bản thân chưa có tiền án, tiền sự nên được Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt khi lượng hình.

[7] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng.

[8] Đối với người thanh niên tên C (chưa rõ nhân thân, lai lịch) bán ma túy cho S, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đồng Xoài đã tiến hành điều tra, xác minh về nhân thân lai lịch để có căn cứ xử lý theo quy định của pháp luật; Đối với D, M, Ph, Q, Th, T, H ngày 07/11/2020 không cùng S sử dụng ma túy và không biết S cất giấu ma túy trong người nên Hội đồng xét xử không đặt ra xử lý.

[9] Vật chứng vụ án:

-01 bì thư đã niêm phong ký hiệu số 244 ngày 09/11/2020 đựng ma túy còn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy.

-01 điện thoại di động hiệu Oppo màu tím đã cũ, không lên nguồn và số tiền 100.000 đồng không liên quan đến vụ án cần trả lại cho bị cáo.

[10] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đồng Xoài tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[11] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố Lê Anh S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt Lê Anh S 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/11/2020.

3. Vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự:

Tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư đã niêm phong ký hiệu số 244 ngày 09/11/2020 đựng ma túy còn lại sau giám định;

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu tím đã cũ, không lên nguồn và số tiền 100.000 đồng (Một trăm ngàn đồng).

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 0001873, quyển số 0038, ký hiệu D47/2017 ngày 11/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đồng Xoài).

4. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án:

Lê Anh S phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2021/HS-ST ngày 30/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:35/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về